Đồng chí Nguyễn Thị Thập tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Tốt, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1908 tại xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang (trước là tỉnh Mỹ Tho) trong một gia đình nông dân nghèo. Từ năm 20 tuổi, đồng chí đã giác ngộ lí tưởng cách mạng, tham gia tổ chức Nông hội ở Long Hưng với nhiều hoạt động được đông đảo nông dân nghèo ủng hộ. Năm 1931, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ đó đồng chí lấy bí danh là Mười Thập, hay Nguyễn Thị Thập, sau đó thoát ly hoạt động phong trào, xây dựng cơ sở ở Mỹ Tho, Tân An, Bến Tre, Sài Gòn….. làm nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục nhân dân và phụ nữ xóa bỏ những hủ tục mê tín dị đoan, những lề thói lạc hậu, chống lại chế độ “ngu dân”. Đồng chí cùng với đồng chí Tám Cảnh (anh trai ruột) và đồng chí Lê Văn Giác (là chồng) thường xuyên tập hợp bí mật thanh niên tuyên truyền lý tưởng của Đảng, giai cấp và tội ác của thực dân xâm lược cùng bọn cường hào ác bá địa phương với hàng trăm thứ sưu cao, thuế nặng. Tháng 4 năm 1935, đồng chí được bầu vào Xứ ủy Nam Kỳ. Tháng 5 năm 1935, đồng chí bị Pháp bắt, bị kết án tù. Hết hạn tù, đồng chí về quê bí mật tham gia hoạt động cách mạng. Sau cuộc lãnh đạo nông dân biểu tình chống thuế ở xã Long Hưng, đồng chí lại bị bắt giam nhưng đồng bào các xã Long Hưng, Long Định đã kéo tới giải thoát cho đồng chí.
Năm 1940, đồng chí ở trong Ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tại tỉnh Mỹ Tho. Chồng của đồng chí Mười Thập cũng là một chiến sĩ cộng sản bị thực dân Pháp giam ngoài Côn Đảo từ năm 1930, vừa mới về tham gia cuộc khởi nghĩa. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ, chồng đồng chí bị bắt (tháng 1–1941), sau đó bị Pháp xử tử hình. Năm 1945, đồng chí tham gia lãnh đạo giành chính quyền tại tỉnh Mỹ Tho. Năm 1946, đồng chí được bầu là Đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tháng 11/1946, thực dân Pháp quay trở lại Việt Nam, toàn quốc kháng chiến, Trung ương dời về chiến khu Việt Bắc. Lúc này, với cương vị là Ủy viên Trung ương Đảng, đồng chí được phân công trở về miền Nam với nhiệm vụ đặc biệt là xây dựng và củng cố Đảng bộ Nam Bộ ngày càng vững mạnh. Năm 1947, đồng chí được cử làm Đoàn trưởng Đoàn Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ, rồi Hội trưởng Hội LHPN Nam Bộ. Năm 1953, Trung ương điều ra công tác tại chiến khu Việt Bắc. Hiệp định Genève được ký kết, đồng chí được cử vào miền Nam để phổ biến việc thi hành hiệp định đình chiến. Sau khi tập kết ra miền Bắc (1954), đồng chí được bầu là Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1956-1974). Năm 1955, đồng chí được bầu vào Ban chấp hành TW Đảng Lao động Việt Nam cho đến khi nghỉ hưu (năm 1980). Đồng chí còn được Đảng và Nhà nước Việt Nam giao nhiều chức vụ quan trọng như: Bí thư Đảng đoàn phụ nữ kiêm Trưởng ban phụ vận Trung ương Đảng.
Gần 60 năm tham gia hoạt động cách mạng, được Đảng và Nhà nước giao nhiều trọng trách quan trọng, đồng chí Nguyễn Thị Thập luôn khắc phục và vượt mọi khó khăn, nguy hiểm, không sợ hy sinh để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhân dân giao phó.
Trên cương vị là Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, đồng chí cùng với tập thể lãnh đạo đề ra những chủ trương chỉ đạo sáng tạo, phù hợp với tình hình của đất nước, tổ chức nhiều hoạt động, nhiều phong trào thi đua sôi nổi của phụ nữ thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, đặc biệt là phong trào phụ nữ “Năm tốt” và phong trào “Ba đảm đang” có sức lôi cuốn toàn thể phụ nữ từ thành thị đến nông thôn hăng hái tham gia. Phong trào “Ba đảm đang” được đánh giá là cao trào cách mạng của phụ nữ, một mốc son trong lịch sử tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và phong trào phụ nữ Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Thị Thập còn là một cán bộ lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược và có nhiều sáng kiến về công tác tổ chức cán bộ. Dưới sự lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Thị Thập, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã bám sát thực tiễn hoạt động, lựa chọn đúng những vấn đề cốt lõi ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng phong trào phụ nữ để có những giải pháp phù hợp với tình hình thực tế, giải quyết được các vấn đề cấp bách của phong trào phụ nữ như đổi mới phương thức chỉ đạo, cơ chế phối hợp, tổ chức bộ máy cấp Hội cơ sở, chất lượng đội ngũ cán bộ Hội (đặc biệt là cán bộ Hội cơ sở).
Trong thời gian giữ trọng trách là Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Phó chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đồng chí Nguyễn Thị Thập đã đóng góp tiếng nói của Hội phụ nữ, đại điện cho giới nữ vào việc sửa đổi Hiến pháp (1960) và xây dựng một số văn bản luật trong thời kỳ này. Đồng thời, đồng chí đã dành nhiều thời gian để đến với các cấp Hội, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của phụ nữ để kiến nghị với Đảng và Nhà nước xây dựng Luật về Hôn nhân và Gia đình cho phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa, thực hiện nam nữ bình đẳng. Đặc biệt, việc đồng chí chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả quá trình tham gia của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam vào việc xây dựng Luật Hôn nhân và Gia đình có ý nghĩa vô cùng quan trọng để Quốc hội xác định những nội dung cơ bản của đạo Luật này. Bên cạnh đó, các hoạt động tuyên truyền thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình của Hội đã góp phần tạo nên sức mạnh cho toàn xã hội và đẩy mạnh sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Liên tục từ khóa I đến khóa VI, đồng chí được bầu vào Quốc hội và giữ chức vụ Phó Chủ tịch Quốc hội từ khóa II đến khóa VI. Năm 1985, đồng chí được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng – Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam và danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đồng chí mất vào ngày 19/3/1996 (tức ngày 1 tháng 2 năm Bính Tý) tại TP. Hồ Chí Minh, hưởng thọ 88 tuổi. Theo di nguyện, đồng chí mong muốn được an táng tại Nghĩa trang liệt sỹ tỉnh Tiền Giang, bên cạnh mộ chồng.
Cuộc đời đồng chí là một huyền thoại sống về người phụ nữ Việt Nam, người con ưu tú nhất của Nam Bộ thành đồng Tổ quốc. Đồng chí Nguyễn Thị Thập cũng là tấm gương tiêu biểu của những người mẹ Việt Nam anh hùng, đã cống hiến chồng và hai người con trai cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Là vợ liệt sĩ hy sinh trong khởi nghĩa Nam Kỳ, mẹ liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, nhưng đồng chí đã gương mẫu động viên người con trai thứ hai vào Nam chiến đấu và anh cũng đã hy sinh anh dũng. Cuộc đời hoạt động và những đóng góp của đồng chí đã tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và phong trào phụ nữ Việt Nam.
Theo tài liệu của Ban Tuyên giáo TW Hội LHPN VN