Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của phụ nữ là nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Đó là tư tưởng về đấu tranh giải phóng phụ nữ và tìm ra biện pháp thực hiện quyền của phụ nữ, góp phần xây dựng người phụ nữ Việt Nam mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của phụ nữ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của phụ nữ được thể hiện trong Chánh cương vắn tắt năm 1930 của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đó nêu rõ: “Về phương diện xã hội thì: a) Dân chúng được tự do tổ chức. b) Nam nữ bình quyền.v.v…”(1).
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau”(2). Thực hiện đấu tranh giải phóng dân tộc là để có phần giành quyền lợi về phía phụ nữ, bởi vì theo Người, dân tộc chưa độc lập thì quyền lợi của phụ nữ chưa được giải phóng, quyền phụ nữ gắn liền với quyền dân tộc, quyền của giai cấp và quyền của con người. Theo đó, thực hiện tranh quyền cho phụ nữ là giành quyền toàn diện về chính trị, tư tưởng, xã hội, giúp cho chị em được giảm nhẹ gánh nặng đôi vai và giảm thiểu cường độ lao động về chân tay. Người chủ trương đào tạo phụ nữ trẻ trở thành những công dân mới xã hội chủ nghĩa, vừa biết lao động chân tay, vừa biết lao động trí óc, tạo mọi điều kiện cho phụ nữ học văn hóa, khoa học – kỹ thuật, nâng cao trí thức, tự vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ đất nước. Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm tới quyền của phụ nữ ở nông thôn, nơi lao động nữ là lực lượng chủ yếu. Người thấu hiểu nỗi vất vả của người phụ nữ nông thôn trong điều kiện lao động chân tay “một nắng, hai sương”, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”.
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng giải phóng con người, do đó nếu không giải phóng phụ nữ, một phần nửa xã hội thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thật sự đem lại quyền và lợi ích cho phụ nữ. Người luôn nhắc nhở: Đảng và Chính phủ luôn chú ý nâng cao địa vị của phụ nữ. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, phụ nữ Việt Nam được thực hiện mọi quyền của mình, được làm chủ xã hội và phát huy vai trò của mình trong xây dựng đất nước.
Đánh giá về thực hiện quyền của phụ nữ trong Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I (ngày 06-01-1946), Hồ Chí Minh nêu rõ, phụ nữ là những người đi bỏ phiếu hăng hái nhất. Người rất chú trọng công tác vận động phụ nữ, khơi dậy tinh thần yêu nước, thương nòi, tổ chức hướng dẫn phụ nữ tham gia vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thời kỳ xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh cho rằng, việc tranh quyền cho phụ nữ còn là quá trình giải phóng sức lao động để tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy khả năng sáng tạo của mình phục vụ Tổ quốc.
Thực tiễn thực hiện quyền của phụ nữ ở Việt Nam cho thấy, từ những năm sau Đổi mới (năm 1986), khi Công ước CEDAW Liên hợp quốc (Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ) chính thức được thực hiện ở Việt Nam, thì vấn đề quyền của phụ nữ đã thu được nhiều kết quả tích cực: nhận thức của các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển, về quyền của phụ nữ đã được cải thiện; phụ nữ ngày càng có nhiều cơ hội thể hiện và khẳng định vị trí, vai trò của mình trong gia đình cũng như các hoạt động chính trị – xã hội; tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý nhà nước tăng lên; hoạt động của các nữ doanh nhân, chủ doanh nghiệp là nữ, hoạt động giao lưu đối ngoại khu vực, quốc tế, số lượng nữ giới tham gia ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng tăng. Quyền của phụ nữ ngày càng được pháp luật, xã hội thừa nhận và tôn trọng bảo đảm thực hiện.
Bảo đảm quyền phụ nữ trong xã hội hiện nay
Tuy nhiên, trong từng giai đoạn, ở nhiều thời điểm, việc thực hiện quyền của phụ nữ còn những hạn chế, bất cập. Nhiều phụ nữ bị xâm hại đến quyền, sức khỏe, thân thể và chịu những định kiến về giới trong xã hội. Nhiều quyền phụ nữ không những không được thực thi như đã cam kết mà còn bị khước từ dưới các hình thức, luật lệ, hương ước, lễ giáo phong kiến và tâm lý bảo thủ trì trệ, gia trưởng của nhiều thành phần trong xã hội. Ở một số địa phương, ngành, lĩnh vực, phụ nữ bị xâm hại, đẩy phụ nữ đến những cảnh tiêu cực. Những hành động bất bình đẳng giới đã kéo lùi sự phát triển của xã hội. Thực tế cho thấy, kinh tế càng nghèo nàn, lạc hậu thì tâm lý phân biệt đối xử với phụ nữ càng nặng nề. Thực thi đầy đủ và triệt để quyền của phụ nữ là vấn đề cấp thiết mang ý nghĩa chiến lược ở cả tầm khu vực và quốc tế, là một trong những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam. Đây là vấn đề quan trọng, là động lực để thúc đẩy phát triển xã hội.
Để nâng cao quyền của phụ nữ ở nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
Một là, thực hiện nhất quán xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ. Đây là biện pháp giữ vai trò nòng cốt, quan trọng hàng đầu trong việc xác lập quyền của phụ nữ. Thực chất của biện pháp này là xác lập sự bình đẳng về các quyền cho phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và dân sự, để đẩy nhanh sự bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ, đem lại quyền cho phụ nữ.
Đồng thời, chấm dứt các hình thức bạo lực chống lại phụ nữ. Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác thông tin tuyên truyền về phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ nhằm thay đổi nhận thức, hành vi trong ứng xử với phụ nữ, góp phần tiến tới xóa bỏ bạo lực với phụ nữ. Theo đó, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, mở rộng giáo dục pháp luật, các quy định của pháp luật về bảo đảm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ.
Bên cạnh đó, nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực của người phụ nữ trong gia đình và xã hội thông qua việc tổ chức các buổi sinh hoạt, các lớp tập huấn dành riêng cho chị em phụ nữ, xây dựng các câu lạc bộ, các trung tâm tư vấn về hôn nhân và gia đình cho chị em. Phát triển kinh tế phải kết hợp với phát triển văn hóa, giáo dục để nâng cao trình độ dân trí nói chung, nhất là trình độ dân trí cho chị em phụ nữ khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng các thiết chế gia đình bền vững được xem là giải pháp nội lực để phòng tránh bạo lực gia đình.
Các cấp ủy, chính quyền địa phương tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra đối với công tác bình đẳng giới vì sự tiến bộ của phụ nữ. Chuẩn hóa và đưa các mục tiêu bình đẳng giới vào kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội hằng năm ở từng địa phương. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, trong lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân, chấn chỉnh các hoạt động văn hóa thông tin có nội dung định kiến giới. Thực hiện đa dạng hóa việc huy động các nguồn lực từ nhà nước và ngoài cộng đồng xã hội để thực hiện kế hoạch bố trí ngân sách cho việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Tăng cường, thường xuyên kiểm tra, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành, liên ngành trong các hoạt động bình đẳng giới.
Hai là, tăng cường giáo dục, đào tạo cán bộ nữ. Giáo dục, đào tạo cán bộ nữ là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng đối với công tác quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ, không chỉ với nữ giới mà còn với cả nam giới. Việc giáo dục, đào tạo phụ nữ sẽ trực tiếp tạo ra nguồn nhân lực nữ có chất lượng cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, mẫu mực về đạo đức, lối sống. Phụ nữ được đi học, đi đào tạo ở tất cả các cấp học, ngành học, trong mọi lĩnh vực lý thuyết cũng như thực hành, kể cả những ngành, những lĩnh vực mà trước kia chỉ có nam giới đảm nhiệm. Trong đó, bồi dưỡng kiến thức, hoàn thiện chức danh, học hàm, học vị cho đội ngũ trí thức nữ là một trong những vấn đề trung tâm.
Chủ động phát hiện cán bộ nữ có năng lực, có tinh thần trách nhiệm với công việc để cử đi đào tạo, bồi dưỡng kiến thức phù hợp với nhu cầu công việc, nhất là phụ nữ ở vùng dân tộc thiểu số. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đảng ủy các cấp ở miền núi cần phải ra sức phát triển đảng viên và đoàn viên phụ nữ, cần phải đào tạo và giúp đỡ cán bộ phụ nữ các dân tộc”(3). Do đặc thù tuổi nghỉ hưu của phụ nữ thấp hơn nam giới là 5 năm, vì vậy, trong việc chọn, cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng cần tính đến yếu tố đó để cử cán bộ nữ đi học trước (nếu cùng điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ) nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ đủ thời gian tham gia các chức danh lãnh đạo, quản lý.
Ngoài ra, đối với bản thân cán bộ, công chức nữ cũng phải tự kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ của mình, cố gắng học tập nâng cao trình độ, nhất là những mặt còn hạn chế để tự khẳng định mình. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học được”(4). Phụ nữ phải vươn lên để bình đẳng với nam giới về trình độ, về năng lực quản lý kinh tế và quản lý xã hội, chủ động quyết tâm khắc phục khó khăn, phải tự tin, tự lực, tự cường, không nên tự ty, “ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình”(5).
Ba là, thực thi trao quyền cho phụ nữ. Đây là biện pháp quan trọng và mang tính chất quyết định đến việc nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. Thực hiện trao quyền cho phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, quyền tham gia lãnh đạo quản lý nhà nước, quyền kinh doanh, buôn bán và hội nhập thị trường quốc tế, quyền hưởng thụ, lao động và cống hiến cho xã hội,…
Việc trao quyền cho phụ nữ cần gắn với khơi dậy ý chí vươn lên của chị em phụ nữ, phát huy được tiềm năng, động lực của mỗi cá nhân. Bản thân phụ nữ cần mạnh dạn khẳng định vị trí, vai trò và xác lập quyền thực sự của mình trong đời sống xã hội, xóa bỏ tự ti mặc cảm, phấn đấu vươn lên trong mọi điều kiện hoàn cảnh để giữ vững và phát huy những quyền mà xã hội đã trao cho mình.
Trong thực hiện trao quyền cho phụ nữ cần chú ý đến việc phát triển kinh tế gắn với tiến bộ xã hội, xóa đói, giảm nghèo cho phụ nữ. Lấy mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống nói chung và cho phụ nữ nói riêng làm mục tiêu xuyên suốt. Xây dựng cơ chế, chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật, các chương trình, đề án, dự án liên quan đến quyền, lợi ích của phụ nữ. Đồng thời, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật liên quan đến quyền của phụ nữ; lồng ghép vấn đề về quyền cho phụ nữ vào các chương trình, sáng kiến ở các cấp chính quyền địa phương, các ban, ngành trong toàn hệ thống chính trị.
Bốn là, chính bản thân phụ nữ phải đấu tranh để giữ lấy quyền của giới mình. Theo Hồ Chí Minh, hơn tất cả mọi điều chính là bản thân chị em phụ nữ phải tự phấn đấu vươn lên để thoát khỏi tâm lý tự ti, bó hẹp để đấu tranh giải phóng đòi quyền lợi cho chính mình và giới mình, góp công sức, trí tuệ của mình trong xây dựng đất nước. Trong bài viết “Phải thật sự bảo đảm lợi quyền của phụ nữ”, Hồ Chí Minh viết: “Bản thân phụ nữ thì phải đấu tranh tự cường tự lập để giữ lấy lợi quyền của mình”(6). Người cho rằng, muốn làm được điều đó thì phụ nữ các tầng lớp phải đoàn kết chặt chẽ, nâng cao giác ngộ chính trị, yêu chuộng lao động, quý trọng của công, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Hồ Chí Minh cũng đặt ra yêu cầu cao đối với phụ nữ về việc học tập để nâng cao trình độ, nhận thức cho ngang tầm với đàn ông trong mọi lĩnh vực của đời sống. Người cho rằng đó là chìa khóa của sự nghiệp tranh quyền cho phụ nữ. Bởi, không có kiến thức, không nhận biết được pháp luật và quyền lợi của giới mình thì sẽ không phát huy được quyền của giới mình trong hoạt động chính trị cũng như cuộc sống. Trước khi đi xa, trong Di chúc Hồ Chí Minh viết: “Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”(7). Những câu nói của Hồ Chí Minh ngắn gọn, xúc tích nhưng chứa nhiều hàm ý sâu sắc, như những lời răn dạy, chỉ dẫn quý báu đối với Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp và bản thân phụ nữ trong đấu tranh thực hiện quyền của phụ nữ và xây dựng xã hội mới trong giai đoạn hiện nay.
Nguồn: www.hoilhpn.org.vn-HT
————————————————–
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 1.
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 260.
(3) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 14, Nxb, Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 264.
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, tr. 263.
(5) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 301.
(6) Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 524.
(7) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 617.