1. Hãy nêu vắn tắt về sự ra đời và ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập vào ngày 3/2/1930 tại Hương Cảng (Hồng kông), Trung quốc trên cơ sở hợp nhất của 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm kết hợp của chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam; khẳng định mục tiêu, xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam là kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo tiền đề và nhân tố quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hàng năm làm Ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Trong 90 năm qua, Đảng đã tổ chức bao nhiêu kỳ Đại hội toàn quốc và hãy nêu tóm tắt ý nghĩa các kỳ Đại hội đó?
Sau 90 năm thành lập đến nay (3/2/1930 – 3/2/2020), Đảng ta đã trải qua 12 kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ I: Diễn ra từ ngày 27-31/3/1935 tại Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư.
Đại hội lần thứ nhất của Đảng đánh dấu sự khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước; thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II: Diễn ra từ ngày 11-19/2/1951 tại Tuyên Quang. Đại hội đã bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
Đại hội đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta. Đường lối do Đại hội vạch ra đã đáp ứng yêu cầu trước mắt của kháng chiến và yêu cầu lâu dài của cách mạng. h
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III: Diễn ra từ ngày 05-10/9/1960 tại Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục giữ cương vị Chủ tịch Đảng. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất.
Đại hội đã tổng kết 30 năm lãnh đạo của Đảng, quyết định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đường lối cách mạng miền Nam nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV: Diễn ra từ ngày 14-20/12/1976 tại Hà Nội. Đồng chí Lê Duẩn tiếp tục làm Tổng Bí thư.
Đại hội diễn ra trong bối cảnh cuộc Kháng chiến chống Mỹ đã thắng lợi, hai miền Nam Bắc thống nhất sau hơn 20 năm chia cắt. Đại hội đã quyết định thực hiện cách mạng xã hội trên toàn đất nước; tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V: Diễn ra từ ngày 27-31/3/1982. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI: Diễn ra từ ngày 15-18/12/1986 tại thủ đô Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại hội đề xướng sự nghiệp Đổi mới. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và dân tộc.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII: Diễn ra từ ngày 24-27/6/1991 tại Hà Nội. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại hội VII là Đại hội lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 và nhiều văn kiện quan trọng khác.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: Diễn ra từ ngày 28/6-01/7/1996 tại Hà Nội. Đồng chí Đỗ Mười được bầu lại làm Tổng Bí thư (sau đó, tại Hội nghị BCHTƯ lần thứ 4 khóa VIII – tháng 12/1997, đồng chí Lê Khả Phiêu đã được bầu làm Tổng Bí thư).
Đại hội tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới, rút ra 6 bài học chủ yếu. Đại hội khẳng định tiếp tục đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đại hội “có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX: Diễn ra từ ngày 19-22/4/2001 tại Hà Nội. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại hội có ý nghĩa mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X: Diễn ra từ ngày 18-25/4/2006 tại Hà Nội. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Một trong những quan điểm mới của Đảng tại Đại hội lần này là cho phép Đảng viên được làm kinh tế tư nhân, kể cả kinh tế tư bản tư nhân là bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam sau 20 năm đổi mới, thể hiện bước đột phá trong thay đổi tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XI: Diễn ra từ ngày 12-19/01/2011 tại Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại hội định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII: Diễn ra từ 20-28/01/2016 tại Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại định hướng, cổ vũ và động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3. Năm 2020 sẽ diễn ra Đại hội Đảng các cấp, tiến tới tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII vào quý I năm 2021. Hãy nêu ý nghĩa sự kiện quan trọng này?
Đại hội Đảng các cấp hướng tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; tập hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; củng cố, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Đại hội là cơ hội tổng kết, đánh giá các kết quả, thành tựu đạt được và xác định những tồn tại, khó khăn, thách thức, từ đó đề ra phương hướng, giải pháp cho nhiệm kỳ mới. Đại hội cũng là dịp để chỉnh đốn đội ngũ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần dân chủ, sáng tạo và trách nhiệm để tham gia có hiệu quả nhất vào các quyết định của Đại hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đại hội Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và của nhân dân ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa”[1].
4. Hội LHPN các cấp phải làm gì để góp phần vào thắng lợi của Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII?
Tổ chức thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn kiện của đại hội Đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng, tạo thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, hiệu quả, phát huy trí tuệ của cán bộ, hội viên, phụ nữ.
Nghiên cứu kỹ dự thảo các văn kiện để định hướng, gợi mở những nội dung quan trọng, những vấn đề liên quan đến bình đẳng giới, phụ nữ, gia đình, trẻ em gắn với tình hình thực tế, nhiệm vụ chính trị của từng cấp để cán bộ, hội viên, phụ nữ đóng góp ý kiến được hiệu quả, thiết thực.
Tích cực tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, phụ nữ tham gia góp ý vào các dự thảo văn kiện Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, đặc biệt là các nội dung liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trẻ em.
Đề cao cảnh giác, phát hiện và báo cáo cơ quan chức năng các trường hợp lợi dụng việc góp ý để xuyên tạc đường lối của Đảng, chống phá chính quyền.
5. Cán bộ, hội viên, phụ nữ phải làm gì để góp phần xây dựng Đảng trong quá trình Đại hội Đảng các cấp?
5.1. Đối với cán bộ Hội:
Chủ động đọc và nghiên cứu kỹ các dự thảo tài liệu văn kiện Đại hội các cấp được phát hoặc công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng để nắm bắt nội dung và chuẩn bị ý kiến, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới.
Tham gia tích cực các cuộc họp, hội thảo, hội nghị lấy ý kiến vào các dự thảo văn kiện Đại hội các cấp, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII để tranh thủ diễn đàn trao đổi làm rõ hoặc bổ sung các vấn đề liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới, gắn với tình hình thực tế, nhiệm vụ chính trị của từng cấp.
Tham mưu tổ chức các hoạt động tuyên truyên, vận động và tổ chức lấy ý kiến đóng góp của hội viên, phụ nữ dưới các hình thức phù hợp.
Tích cực tuyên truyền, vận động người thân, hội viên, phụ nữ tham gia đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện Đại hội Đảng các cấp.
5.2. Đối với hội viên, phụ nữ:
Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chi, tổ phụ nữ; các cuộc truyền thông do Hội tổ chức; các cuộc họp tại khu dân cư để nắm bắt các thông tin liên quan đến việc lấy ý kiến cũng như việc tổ chức lấy ý kiến vào các dự thảo văn kiện Đại hội.
Chủ động đọc, nghiên cứu các dự thảo văn kiện Đại hội thông qua các trang báo mạng/báo giấy/tài liệu phát tay trong các cuộc họp hoặc lắng nghe các thông tin trên hệ thống truyền thanh của cấp xã, thôn, bản để phát hiện các vấn đề cần trao đổi, làm rõ, bổ sung liên quan đến quyền lợi hợp pháp, chính đáng của bản thân, phụ nữ, trẻ em tại địa phương.
Tích cực tham gia và đóng góp ý kiến vào dự thảo tài liệu tại các cuộc họp thôn, bản, các buổi sinh hoạt tổ/chi hội phụ nữ…
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Tr.545, NXB Chính trị Quốc gia, H.2011
Nguồn: http://hoilhpn.org.vn-PL-HT