Cuộc đấu tranh vang động núi rừng
Nhà lao Kon Tum…
Nhà lao Kon Tum (Lao trong), được xây dựng từ khoảng năm 1915-1917, khi thực dân Pháp đã thiết lập được bộ máy cai trị ở tỉnh Kon Tum, nằm bên bờ sông Đăk Bla, cách quốc lộ 14 khoảng 1km về phía Tây, gần với toà làm việc của Công sứ Pháp, của giám binh, trụ sở tên quản đạo và trại lính bảo an. Tháng 3-1931, Pháp tiếp tục xây dựng thêm nhà lao thứ hai (Lao ngoài) nhằm mục đích giam giữ tù nhân từ công trường Đăk Pao, Đăk Pét về trong 6 mùa mưa, nên có tính chất tạm bợ hơn.
Nhà lao Kon Tum ban đầu chỉ giam giữ những người bị thực dân Pháp quy vào tội chống đối hoặc vi phạm “pháp luật” của chúng. Từ cuối năm 1929 đến năm 1930, có 02 tù chính trị bị đưa lên giam giữ tại đây là đồng chí Đổng Sỹ Bình và đồng chí Ngô Đức Đệ (người lập ra chi bộ Binh-chi bộ Đảng đầu tiên ở tỉnh Kon Tum). Sau thất bại của phong trào 1930-1931, thực dân pháp đã đàn áp, bắt bớ hàng loạt chiến sỹ Cộng sản và quần chúng giác ngộ theo phong trào đem lên giam giữ ở Kon Tum. Mục đích của chúng là giải quyết tình trạng quá tải trong nhà lao ở các tỉnh đồng bằng miền Trung; mặt khác, chúng muốn bóc lột sức lao động của tù nhân để làm con đường 14 phục vụ cho chính sách xâm lược, cai trị của chúng; hơn nữa, thực dân Pháp còn muốn lợi dụng nơi rừng thiêng nước độc, vùng xa xôi hẻo lánh để cách ly tư tưởng cộng sản, giết dần, giết mòn những người tù chính trị mà không sợ mang tai tiếng, dư luận. Tại nhà lao Kon Tum từ năm 1930-1933, thực dân Pháp đã giam cầm, đày ải trên 500 lượt tù chính trị, nó đã biến nhà lao Kon Tum từ nhà lao cấp tỉnh trở thành một bộ phận nhà đày xứ Trung kỳ thời bấy giờ.
…Và những tội ác của thực dân, tay sai
Lớp tù chính trị đầu tiên gồm 150 người bị thực dân Pháp đày từ nhà lao Kon Tum đi làm đường Đăk Pao, Đăk Pét. Trên đường đi dài trăm cây số, người tù đi bộ lại phải mang vác nhiều hành lý nặng, vừa bị lính thúc dục bằng roi đòn, báng súng. Nhiều người tù đang còn mang trong mình bệnh tật, già yếu…theo không kịp Đoàn lại bị chúng đánh tàn nhẫn, thậm chí có đồng chí phải bỏ mạng trên đường đi. Đến công trường Đăk Pao, Đăk Pét làm việc, lính Pháp và tay sai tiếp tục đánh đập tù nhân, chúng đánh bất kỳ ai, bất cứ dụng cụ gì, bất kỳ lúc nào và với bất cứ lý do nào chúng cũng đánh người được. Roi da, gậy hèo và báng súng đã trở thành nổi khiếp đảm của những người tù chính trị nơi đây. Chúng bổ gậy hèo vào tù nhân lúc điểm danh, lao động, lúc ăn cơm, tiểu tiện và cả lúc đi ngủ… Chúng lấy tù nhân để chơi đùa, mua vui một cách tàn ác: chúng bắt các tù nhân già đem ra vắt râu, bắt ăn cứt trâu, cứt bò, chúng treo ngược tù nhân lên cây, trói tù nhân vào tổ kiến..Trên công trường, tù nhân phải làm quần quật mỗi ngày trên 10 giờ đồng hồ, dưới mọi thời tiết, đầu không có nón đội, mình không có mãnh che mưa; trưa không có thời gian nghỉ ngơi, tối không được ngủ đầy giấc. Chế độ ăn uống kham khổ, đói khát, cơm lẩn nhiều trấu sạn, mắm muối đầy dòi bọ; uống nước khe suối bẩn đục, đầy lá rừng và phân thú hôi tanh. Điều kiện sống khắc nghiệt, thiếu thốn nên nhiều tù nhân đã kiệt sức và chết vì đau ốm, bệnh tật.
Sự đối xử của thực dân Pháp và tay sai đối với tù chính trị trên công trường Đăk Pao, Đăk Pét là hết sức tàn ác. Tội ác của chúng không sao kể hết, chỉ tính trong vòng 6 tháng làm đoạn đường 15 km tại Đăk Pao, Đăk Pét, đã có 150 trong số 295 tù chính trị bị chết một cách thê thảm, số còn lại chỉ còn là da bọc xương. Đoạn đường này được ví như “Địa ngục của trần gian”. Trong tình cảnh áp bức, đau thương và đầy uất hận, một số tù nhân cùng cực đã nghĩ đến lấy cái chết để kết thúc, một số người đã chủ trương bạo động nhưng kế hoạch chưa thực hiện được đã bị bại lộ và bị giết chết.
… đến cuộc đấu tranh vang động núi rừng
Giữa năm 1931, Kon Tum bước vào mùa mưa, thực dân Pháp đưa tù chính trị trở về nhà lao Kon Tum để giam giữ và lao động khổ sai trong vùng thị xã.
Đầu tháng 7-1931, sau khi chi bộ binh ở nhà lao bị khủng bố, địch đưa đồng chí Ngô Đức Đệ ra giam ở Lao ngoài. Tại đây, số tù chính trị cũ và mới gặp nhau, đồng chí Đệ đã thông báo tình hình tù nhân làm đường, sự đàn áp, đày đọa tù nhân của kẻ địch, tình hình của chi bộ binh, chi bộ đường phố… Anh em tù chính trị đã hình thành một Ban Lãnh đạo chung và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên. Ban Lãnh đạo chung của tù nhân nhất trí hạ quyết tâm: “Muốn sống, không có con đường nào khác ngoài con đường đấu tranh mà Đảng đề ra. Muốn bảo đảm cuộc đấu tranh thắng lợi nhất định chúng ta phải làm cho anh em đoàn kết nhất trí, có quyết tâm cao. Phải đấu tranh kiên quyết, bền bỉ, có kế hoạch chu đáo”. Mục tiêu đấu tranh là đòi thực dân Pháp bãi bỏ chế độ giết người dã man đối với tù chính trị, ưu đãi tù chính trị…Từ tháng 9-1931, Ban Lãnh đạo chung đã thành lập Đội cảm tử và Đội quyết tử tiên phong, bất khuất trong quá trình đấu tranh với bọn cai trị thực dân, tay sai. Cũng từ tháng 9-1931, nhiều cuộc đấu tranh của của tù chính trị dưới nhiều hình thực đã liên tiếp nổ ra, trong đó có cuộc đấu tranh lưu huyết phản đối việc bắt tù chính trị lên Đăk Pét lần 2.
Sáng ngày 12-12-1931, bọn thực dân, tay sai đã chia tù nhân theo từng tốp đi làm, chúng giữ lại 40 người (đều là thành viên trong đội cảm tử, quyết tử) để tiếp tục đưa lên công trường Đăk pao, Đăk Pét. Do có sự chuẩn bị từ trước, tất cả 40 anh em tù chính trị đã chạy thẳng vào phòng giam hô to khẩu hiệu:”phản đối di Đăk Pét”, “Phản đối chính sách tàn ác của Chính phủ đối với chính trị phạm”.
Công sứ và giam binh Pháp đã điều binh lính kéo đến bao vây xung quanh nhà lao. Trong lao, 40 anh em vẫn tiếp tục hô to khẩu hiệu: “Phản đối đi Đăk Pét”. Mọi người đều siết chặt hàng ngũ đứng trước cửa lao, không để cho binh lính xông vào lôi một ai ra.
Đồng chí Trương Quang Trọng (mang số tù 303) là người chiến sĩ Cộng sản đầu tiên bị bắn chết[1]. Sự hy sinh anh dũng của đồng chí Trọng đã thúc dục tình thần của anh em tiếp tục đấu tranh phản đối kịch liệt. Được lệnh của tên Công sứ, bọn lính đồng loạt xả súng vào các anh em trong tù, 8 đồng chí bị bắn chết tại chổ và 8 đồng chí khác bị thương. Sau khi bắn giết xong, bọn lính ùa vào bắt 24 người còn sót lại chở đi Đăk Pét.
Sáng ngày 13-12-1931, số anh em tù nhân còn lại đã tổ chức Lễ truy điệu cho các đồng chí, đồng đội đã hy sinh trong niềm đau thương và nổi phẫn uất vô hạn. Chiều ngày 13-12-1931, Bản tuyên ngôn chính trị và yêu sách của tù nhân được chuẩn bị và dịch ra tiếng Pháp, tiếng dân tộc địa phương. Bản tuyên ngôn vạch trần chế độ đối xử tàn bào của thực dân Pháp với tù chính trị và đòi nhà cầm quyền Pháp phải chịu trách nhiệm về sự tàn bào này.
Ngọn lửa đấu tranh của anh em tù chính trị ngày càng thổi bùng, quyết liệt. Từ ngày 12 đến ngày 16-12-1931 anh em đã tổ chức tuyệt thực để phản đối bọn thực dân, tay sai. Sáng ngày 16-12-1931, thực dân Pháp tiếp tục nổ súng đàn áp cuộc đấu tranh tuyệt thực, làm 7 đồng chí hy sinh và 8 đồng chí khác bị thương.
Cuộc đấu tranh Lưu huyết tại Ngục Kon Tum chỉ trong một thời gian ngắn, thực dân Pháp đã giết hại 15 đồng chí và làm bị thương 16 đồng chí, các đồng chí còn lại vẫn bị chúng đưa lên tiếp tục làm đường Đăk Pao, Đăk Pét. Tuy nhiên ,cuộc đấu tranh đã thể hiện bản lĩnh, khí phách hiên ngang của các chiến sỹ Cộng sản trước mũi lê, hòn đạn quân thù. Vì lý tưởng Cộng sản, khát vọng độc lập cho Tổ quốc, cho quê hương, họ tự nguyện “chết cho sự sống”, “chết một người để cứu sống muôn người”.
Cuộc đấu tranh không cân sức giữa những người tù chính trị bị xiềng xích, gông cùm với bọn thực dân, tay sai có trong tay dư thừa súng đạn đã được nhân dân Kon Tum chứng kiến. Đồng bào khâm phục ý chí kiên cường của những người tù Cộng sản. Qua đó, nhân dân càng hiểu rõ hơn về những người Cộng sản, càng hiểu về Đảng, nhân dân Kon Tum nguyện đi theo Đảng để giành độc lập, tự do. Từ sự kiện này, nhiều binh lính trong hàng ngũ địch đã ngã về phía cách mạng
Cuộc đấu tranh đã gây chấn động đối với bọn thực dân Pháp ngay tại Kon Tum và trên toàn cõi Đông Dương, khiến chúng phải thay đổi, nhượng bộ từng bước như: thay đổi chế độ lao dịch của tù, bãi bỏ chế độ đánh đập tù nhân, người tù ốm đau được nghỉ và có thuốc men…đến cuối tháng 12-1931, chúng đã bỏ hẳn việc đưa tù chính trị đi làm đường 14 ở Đăk Pao, Đăk Pét. Và sau đó, năm 1934, thực dân Pháp buộc phải bỏ hẳn nhà đày Kon Tum. Đó chính là minh chứng cho sự thất bại của kẻ thù trước sự đấu tranh anh dũng, bền bỉ của các chiến sỹ tù Cộng sản và nhân dân các dân tộc Kon Tum.
85 năm đã trôi qua, quá khứ đã khép lại, lịch sử đã sang trang, song những tội ác của chế độ thực dân, đế quốc không bao giờ xoá được trong trái tim những con người Việt Nam yêu nước. Hình ảnh các chiến sỹ ngã xuống để giữ gìn khí tiết người Cộng sản mãi mãi không phai mờ trong tâm trí của người dân Kon Tum./.
[1] Đồng chí Trương Quang Trọng đã nhận tội thay đồng chí Nguyễn Huy Lung số tù 299.