Đề cương báo cáo chuyên đề
Chỉ thị 05 và chủ đề năm 2016: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Báo cáo chuyên đề về Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị và chủ đề thực hiện Chỉ thị năm 2016.
– Nội dung trình bày gồm 3 vấn đề:
1- Sự cần thiết phải đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh hiện nay,
2- Nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
3- Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh như thế nào.
Nội dung
Phần thứ nhất:
SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
1- Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của cách mạng Việt Nam
– Hội nghị thành lập Đảng 3-2-1930
– Hội nghị Trung ương 8, tháng 5-1941
– Đại hội II (1-1951)
– Đại hội VII (6-1991) khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng.
– Đại hội IX (4-2001), đã khẳng định “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”; “Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta”; “tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
2- Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và vấn đề chống suy thoái, về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và xã hội.
3- Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là chủ trương nhất quán, lâu dài, liên tục của Đảng ta
– Từ ngày thành lập, thực hiện Chính cương, sách lược văn tắt…
– Mặt trận Việt Minh và cao trào giải phóng dân tộc.
– Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, xây dựng chủ nghĩa xã hội: Sống chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại.
– Bắt đầu đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội VI (1986) đã yêu cầu; “Mỗi người cộng sản chúng ta cần phải suốt đời học tập, noi gương đạo đức, tác phong của Bác Hồ, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, ghi nhớ và làm theo lời dạy của Người, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, xứng đáng là người lãnh đạo và người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
– Chỉ thị 23-CT/TW ngày 27-3-2003, Ban Bí thư khóa IX đã ban hành Chỉ thị 23-CT/TW, tổ chức đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong Đảng và tuyên truyền rộng rãi trong xã hội.
– Thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, ngày 07-11-2006, Bộ Chính trị khoá X đã ban hành Chỉ thị 06-CT/TW về triển khai Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
– Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, ngày 14-5-2011, Bộ Chính trị kháo XI đã ban hành Chỉ thị 03-CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
– Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định “… đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
– Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành một Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Phần thứ hai
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
– Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại…
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991) lần đầu tiên Đảng ta khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Văn kiện của Đại hội đã nêu: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta”.
– Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, “soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
– Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh:
+ Truyền thống dân tộc
+ Tinh hoa văn hóa nhân loại (đông – tây)
+ Chủ nghĩa Mác – Lênin
+ Những nhân tố chủ quan của con người Hồ Chí Minh.
2- Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh:
(1)- Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;
(2)- Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
(3)- Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc;
(4)- Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân;
(5)- Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;
(6)- Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân;
(7)- Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
(8)- Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau;
(9)- Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân…
3. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam
3.1.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam
3.1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam
3.2. Ý nghĩa quốc tế của Tư tưởng Hồ Chí Minh
3.2.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại.
3.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra giải pháp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người
3.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả
4. Về nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
– Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” cần tập trung nghiên cứu, quán triệt nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sáu nhóm vấn đề: Về con đường của cách mạng Việt Nam; Về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Về nhân dân, đại đoàn kết toàn dân; Về xây dựng văn hóa và con người; Về phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; Về xây dựng đảng.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường của cách mạng Việt Nam
1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
1.1.1. Về vấn đề dân tộc thuộc địa
1.1.2. Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong phong trào giải phóng dân tộc
1.1.3. Về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
– Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công nhân lãnh đạo.
– Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
– Về văn hóa, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc, dân chủ, khối quần chúng công – nông – trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hóa, giáo dục đã được hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
– Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ.
– Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
– Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức,
– Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý.
– Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, xây dựng con người.
Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công – nông – trí thức.
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
– “Tuỳ hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước đi thẳng lên con đường chủ nghĩa xã hội (cộng sản),… có nước phải qua chế độ dân chủ mới rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)…” .
– “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”.
– Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị – xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
– Về phương châm xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài” , “phải làm dần dần”, “không thể một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”.
– Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, đặc biệt là quyết tâm (chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi) để thực hiện thắng lợi kế hoạch đã đề ra.
2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.4.1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2.4.2. Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý
2.4.3. Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa
2.4.4. Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
Đề xây dựng và phát triển kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt:
Một là, công tư đều lợi. Hai là, chủ thợ đều lợi. Ba là, công nông giúp nhau. Bốn là, lưu thông trong ngoài.
2.4.5. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu
2.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc
2.5.1. Về xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang nhân dân
2.5.2. Về xây dựng bản chất cách mạng và ý thức chính trị cho quân đội
2.5.3. Về xây dựng thế trận lòng dân, nền quốc phòng toàn dân
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân, xây dựng văn hóa, con người
3.1.1. Về phạm trù nhân dân
3.2. Về không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân
Người nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là:
“1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành”.
3.3. Về đại đoàn kết toàn dân tộc
4.Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa và con người
4.1. Khái niệm văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh
– Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được hiểu theo cả 3 nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp.
4.2. Quan điểm về xây dựng nền văn hoá mới
Theo Hồ Chí Minh, nền văn hoá dân tộc phải được xây dựng trên 5 điểm lớn sau đây:
“(1) Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
(2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
(3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
(4) Xây dựng chính trị: dân quyền.
(5) Xây dựng kinh tế”.
4.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
4.3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
– “Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng”. Theo Người, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”
– Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
4.3.2. Về chiến lược “trồng người”.
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
5.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ
5.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ
5.1.2.Quan điểm Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ
a) Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi
b) Xây dựng các tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội
5.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
5.2.1. Về Nhà nước pháp quyền
Nhà nước của dân.
Nhà nước do dân”.
Nhà nước vì dân
5.2.2. Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
– Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
– Nhà nước bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước.
– Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
5.2.3. Về xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống.
Ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp ( Hiến pháp 1946 và 1959), đã ký công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác.
Phép trị nước của Hồ Chí Minh là kết hợp cả “pháp trị “ và “đức trị – nhân trị”. Trong đó “pháp trị” rất nghiêm khắc, công minh và “đức trị – nhân trị” cũng rất tình người, bao dung, thấu tình đạt lý.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài. Những yêu cầu cảu Người đối với đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm:
– Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
– Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
– Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
– Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”.
Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng
6.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
6.1.1. Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
6.1.2. Về vai trò lãnh đạo và bản chất của Đảng
6.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
6.2.1. Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
6.2.2. Nội dung công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng
b) Xây dựng Đảng về tổ chức
c) Xây dựng Đảng về đạo đức
6.2.3. Về các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng
a) Nguyên tắc tập trung dân chủ
b) Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
c) Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
d) Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác
đ) Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng
Có thể tóm tắt tập trung vào 5 vấn đề
Một là, Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc.
1- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
– Về vấn đề dân tộc thuộc địa
– Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong phong trào giải phóng dân tộc
– Về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người
2- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên của dân tộc: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
– Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công nhân lãnh đạo.
– Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
– Về văn hóa, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc, dân chủ, khối quần chúng công – nông – trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hóa, giáo dục đã được hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
3- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
– Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
+Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, xây dựng con người. Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công – nông – trí thức.
+ Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
+ Tính tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa; Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
+ Đề xây dựng và phát triển kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt: công tư đều lợi; chủ thợ đều lợi ; công nông giúp nhau ; lưu thông trong ngoài.
+ Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu
– Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc
+ Về xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang nhân dân
+ Về xây dựng bản chất cách mạng và ý thức chính trị cho quân đội
+ Về xây dựng thế trận lòng dân, nền quốc phòng toàn dân
Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
1- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ
– Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ
– Quan điểm Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ
+ Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi
+Xây dựng các tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội
2- Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
– Về Nhà nước pháp quyền
+ Trăm đều phải có thần linh pháp quyền.
+ Nhà nước của dân; Nhà nước do dân; Nhà nước vì dân
– Về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
+ Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
+ Nhà nước bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước.
+ Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
– Về xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
+ Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống.
+ Ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp ( Hiến pháp 1946 và 1959), đã ký công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác.
+ Phép trị nước của Hồ Chí Minh là kết hợp cả “pháp trị “ và “đức trị – nhân trị”. Trong đó “pháp trị” rất nghiêm khắc, công minh và “đức trị – nhân trị” cũng rất tình người, bao dung, thấu tình đạt lý.
– Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài. Những yêu cầu cảu Người đối với đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm:
+ Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
+ Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
+Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
+ Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”.
Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.
Ba là, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
1- Về phạm trù nhân dân “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trên thế giới không có lực lượng nào mạnh bằng sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân”
2- Về không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân
Người nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là:
“1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành”
3- Về đại đoàn kết toàn dân tộc
Bốn là, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa và con người
1-Khái niệm văn hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh
– Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được hiểu theo cả 3 nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp.
2- Quan điểm về xây dựng nền văn hoá mới
– Theo Hồ Chí Minh, nền văn hoá dân tộc phải được xây dựng trên 5 điểm lớn sau đây:
“(1) Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
(2) Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
(3) Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
(4) Xây dựng chính trị: dân quyền.
(5) Xây dựng kinh tế”.
3- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
– Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
+ “Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng”. Theo Người, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”
+ Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
– Về chiến lược “trồng người”.
Năm là, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng
1-Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
– Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
– Về vai trò lãnh đạo và bản chất của Đảng
2- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
– Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
– Nội dung công tác xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
+Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng
+ Xây dựng Đảng về tổ chức
+Xây dựng Đảng về đạo đức
– Về các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ
+ Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
+ Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
+Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác
+ Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng.
II. ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1. Vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của mỗi người
– Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng vẻ vang.
– Đạo đức là tiêu chí đánh giá sự văn minh, cao thượng của xã hội, con người.
– Đạo đức giúp con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh làm người trong mọi hoàn cảnh, không dễ bị thay đổi trước những xoay vần, biến thiên của thời cuộc: Giàu sang không thể quyết rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục.
– Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi lẽ, có tâm, có đức mới giữ vững được chủ nghĩa Mác – Lênin, đưa chủ nghĩa Mác – Lênin vào cuộc sống.
– Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, cấu trúc nhân cách bao gồm hai mặt: đạo đức và tài năng, phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, trong đó, Người xác định đạo đức, phẩm chất, hồng là gốc, là nền tảng, nhưng điều đó không có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài.
– Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
– Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập đến một cách toàn diện.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những phẩm chất cơ bản của đạo đức cách mạng
1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
1.2.2. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
1.2.3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
1.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng
1.3. Nguyên tắc xây dựng đạo đức
1.3.1. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
1.3.2. Xây đi đôi với chống
1.3.3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
2. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Suốt đời vì dân, vì nước
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người cả đời phấn đấu hy sinh, tất cả vì dân, vì nước, vì hạnh phúc con người.
Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Nói chuyện với đồng bào trước khi sang thăm Pháp (ngày 30-5-1946), Hồ Chí Minh khẳng định: Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng – cũng vì mục đích đó… Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân.
Là lãnh tụ của dân tộc, Người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ trách nhiệm của cá nhân: Lo cho dân, cho nước từ những việc lớn đến việc nhỏ. Hồ Chí Minh gắn bó với đồng bào theo đúng nghĩa anh em, chị em, con cháu và thật sự Người có tình cảm, trách nhiệm với họ như những người ruột thịt.
Khi một nhà báo nước ngoài phỏng vấn (ngày 14-7-1969), Hồ Chí Minh đã trả lời: “Đồng chí muốn biết tình cảm của tôi đối với miền Bắc và đối với miền Nam phải không? Tôi yêu đồng bào ở miền Bắc cũng như yêu đồng bào ở miền Nam. Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi… Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: “Về việc riêng – suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”
2.2. Ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt được mục đích
Được nuôi dưỡng trên một truyền thống đạo đức của dân tộc, ở Hồ Chí Minh đã hình thành một lý tưởng và hoài bão đúng đắn, tạo ra động lực cho Người vượt qua mọi thử thách, chông gai để đưa cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng. Trên các chặng đường cách mạng, Hồ Chí Minh sống một cuộc sống kham khổ, hành trình qua bốn đại dương, năm châu lục. Ý chí và nghị lực tinh thần to lớn của Hồ Chí Minh trưởng thành qua thực tiễn cách mạng, kết hợp với một niềm tin, một tinh thần lạc quan từ trong tâm hồn của Người.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh từng bị tù đày nhiều nơi, nhưng vẫn luôn giữ thái độ lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh của con người, vào cuộc sống, chính nghĩa, với ý chí, nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn.
2.3. Hết lòng thương yêu, quý trọng, phục vụ nhân dân
– Là một tấm gương mẫu mực phục vụ nhân dân, Hồ Chí Minh ý thức rõ rằng, đã là cán bộ thì phải có trách nhiệm với dân, làm cán bộ chứ không phải quan cách mạng, cho nên từ việc nhỏ đến lớn đều phải vì nhân dân; ở bất kỳ cương vị nào cũng phải vì nhân dân mà phục vụ. “Làm Chủ tịch nước, trăm điều phải lo. Trời mưa, trời nắng, gió bão… chưa ai lo, mình đã phải lo. Các cháu choẹt mắt, chưa ai lo, mình đã phải lo”. Hồ Chí Minh định nghĩa cái gì có lợi cho nhân dân, cho dân tộc là chân lý, và Người xem phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý; làm công bộc cho dân là một việc làm cao thượng.
Hồ Chí Minh dặn dò: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Hồ Chí Minh là người thấu hiểu dân tình, chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí để không ngừng thực hành dân chủ cho dân. Ngày đêm Người đau đáu một điều là “giành được độc lập rồi, thì phải làm cho dân được ăn no mặc ấm”. Nếu không, nền độc lập đó chẳng có giá trị gì; để dân đói, dân rét thì Đảng và Chính phủ có lỗi với dân.
2.4. Nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, luôn hết mực vì con người
Giáo sư Trần Văn Giàu từng khẳng định: “Tầm cỡ của một hiền triết chung quy là ở mức quan tâm đến con người, con người thật đang phải sống trên quả đất này và chắc còn sống lâu dài đến vô tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó; vì đó mà Cụ lớn”
Mo-ha-med La-ma-ri, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Dân chủ Nhân dân An giê ri tại Việt Nam, từng khẳng định: “Ưu điểm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là không chỉ đấu tranh cho một lá cờ, cho một sự giải phóng ở bề mặt bên ngoài, Người muốn tiến hành một cuộc chiến đấu cho phẩm giá con người, cho sự giải phóng và phúc lợi của toàn dân và nhờ thế mà cuộc cách mạng do Người phát động đã mang tầm cỡ thế giới…”
Trong Di chúc, Bác viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người”
Lòng khoan dung nhân ái của Hồ Chí Minh luôn dành hết mực cho mọi kiếp người. Người cảm thấy rất đau khổ khi nhìn thấy những thanh niên Mỹ chết một cách vô ích ở Việt Nam. Hiếm có một lãnh tụ nào trong chiến tranh mà lại thấy được máu nào cũng là máu, người nào cũng là người, đều quý như nhau. Ngay đối với kẻ thù xâm lược đã gây nên bao đau thương cho dân tộc mình, gây ra bao tội ác man rợ đối với nhân dân, nhưng khi chúng bị bắt, Người vẫn căn dặn cán bộ, chiến sĩ ta phải đối xử với họ một cách khoan hồng, phải làm cho thế giới thấy rằng dân tộc Việt Nam là một dân tộc văn minh, tiến bộ, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước.
2.5. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và hết sức khiêm tốn
Hồ Chí Minh thực hành triệt để tất cả những gì Người quan niệm, thậm chí Người còn làm nhiều hơn những gì Người nói.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về thực hành tiết kiệm trong ăn, mặc, ở, đi lại… Mọi cái ở Người được sử dụng một cách hợp lý. Ở Hồ Chí Minh, tiết kiệm đã trở thành nếp sống, sinh hoạt, kết tinh và đọng lại thành giá trị văn hoá, một triết lý nhân sinh, biểu trưng của lối sống văn minh, hiện đại làm cơ sở cho việc thực hiện tinh thần nhân văn cao cả trong thế giới còn nghèo đói, khó khăn, vật lộn để sinh tồn và phát triển.
Giữ mình liêm khiết, trong sạch, Hồ Chí Minh sống trung thực, chân thành với chính mình và với người khác, luôn tôn trọng nhân cách người khác. Người biết nâng con người lên, khuyến khích, động viên để con người thấy rõ giá trị đích thực của cuộc sống, có khát vọng sống.
Hồ Chí Minh là một tấm gương đấu tranh không mệt mỏi chống lại cái ác, cái xấu trong xã hội, trong mỗi con người, những biểu hiện tiêu cực, nhất là căn bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu trong bộ máy tổ chức của Đảng, Nhà nước. Hồ Chí Minh có thái độ rõ ràng, công minh trước công và tội. Người viết nhiều bài báo giáo dục, cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên không được phép làm “quan cách mạng”, phòng tránh những cám dỗ đời thường để không bị ngã gục trước những “viên đạn bọc đường”. Người đã trực tiếp chỉ đạo xét xử những vụ án lớn; phân tích thấu tình đạt lý những nguyên nhân dẫn đến lỗi lầm của cán bộ, đảng viên, trong đó có đảng viên có chức có quyền, củng cố niềm tin của nhân dân vào cán cân công lý của luật pháp, vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
III. PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
1. Khái niệm phong cách và phong cách Hồ Chí Minh
1.1. Khái niệm phong cách
– Trước Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng ta thường dùng khái niệm “tác phong” để nói về “tác phong Hồ Chủ tịch”. Hai chữ “tác phong” được hiểu là phong cách làm việc và phong cách công tác của Hồ Chí Minh. Từ Đại hội VII, “tác phong” được thay bằng “phong cách” trong cụm từ “Tiếp tục bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, những giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
– Nói phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng giá trị, mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với tư tưởng, đạo đức của Người; thể hiện của một nhân cách lớn, siêu việt, trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng, nhân văn. Đó là phong cách của một vĩ nhân, một chiến sỹ cộng sản lỗi lạc, một nhà văn hóa lớn.
– Phong cách cách mạng Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa hoc, đạo đức, thẩm mỹ. Phong cách Hồ Chí Minh gồm những điểm nổi bật sau đây:
1. Phong cách tư duy
Hồ Chí Minh là người mác-xít, phong cách tư duy của Người trước hết là phương pháp biện chứng duy vật: xuất phát từ thực tiễn để trở lại biến đổi thực tiễn. Hồ Chí Minh đã thể hiện một phong cách tư duy khoa học và hiệu quả với những đặc trưng nổi bật như sau:
1.1.Phong cách tư duy khoa học, cách mạng và hiện đại
Từ cách tiếp cận vấn đề một cách khoa học, gắn với yêu cầu của thực tiễn và điều kiện lịch sử, Người đã vượt qua các lớp sĩ phu yêu nước tiền bối, sớm nhận thức được những vấn đề của thời đại mình. Phong cách tư duy mới đã giúp Nguyễn Ái Quốc có quyết định đi sang phương Tây để tìm đường cứu nước. Nhờ đó, Người đã có dịp sống ở những trung tâm văn hóa – khoa học – chính trị nổi tiếng của thế giới thời đó, như Niu Ooc, Pari, Luân đôn, Mat-xcơ-va…, tiếp xúc, hoạt động gần gũi với những đại diện xuất sắc của trí tuệ thời đại bấy giờ – các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, nhà hoạt động chính trị, cách mạng nổi tiếng,… nhanh chóng trưởng thành về nhiều mặt, trong đó có tư duy biện chứng và hiện đại.
Nhờ có phong cách tư duy đó, cùng với sự cần cù chịu khó, óc quan sát và suy nghĩ từ thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã tự trang bị cho mình một vốn học vấn sâu rộng và chắc chắn, để trở thành một trí thức tự học, không bằng cấp, nhưng uyên bác về nhiều mặt. Đó là phong cách tư duy không tiếp thu một cách thụ động, không dừng lại ở sự vật, hiện tượng bề ngoài, mà đi sâu phân tích, so sánh, chắt lọc, lựa chọn, tổng hợp, rút ra những phán đoán, đi tới những kết luận mới, đề ra những luận điểm mới, vừa kế thừa, vừa phát triển sáng tạo để tiếp tục vượt lên phía trước. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã bắt kịp với nhịp sống và sự phát triển của thời đại, để có thể lựa chọn đúng đường đi cho dân tộc và dự kiến được những bước phát triển mới của lịch sử.
1.2.Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo
Đó là phong cách tư duy không giáo điều, rập khuôn, không vay mượn của người khác, hết sức tránh lối cũ, đường mòn, tự mình tìm tòi, suy nghĩ, truy đến tận cùng bản chất của sự vật, hiện tượng để tìm ra chân lý, phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn.
Hồ Chí Minh đã không ngừng làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn văn hóa – tư tưởng của nhân loại. Người đã tìm hiểu, tiếp thu những yếu tố dân chủ, tiến bộ, nhân văn của các học thuyết khác, theo tư tưởng chỉ đạo của Lênin: “Chỉ những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”.
Tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu sắc di huấn của các bậc thầy của cách mạng vô sản, “không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm”, mà “phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy, thì xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”. Đó chính là quan điểm thực tiễn, cơ sở của sự sáng tạo.
1.3. Phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình
Thể hiện rõ nhất của phong cách tư duy này ở Hồ Chí Minh là luôn biết xuất phát từ cái chung, cái nhân loại, từ những chân lý phổ biến, những “lẽ phải không ai chối cãi được” để nhận thức và lý giải những vấn đề của thực tiễn. Người từng viết: “Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau: Ấy là dân nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ”; hay: “Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ”.
Để đàm phán, thuyết phục đối phương đi tới đồng thuận, Người thường lập luận trên cơ sở nguyên tắc về tính đồng nhất của nguyên lý. Người viết: “Quyền độc lập, tự do ở nước nào cũng vậy, đều do xương máu của những nghĩa sĩ và đoàn kết của toàn quốc dân mà xây dựng nên. Vậy nên, những người chân chính ham chuộng độc lập, tự do của nước mình thì phải kính trọng độc lập, tự do của các dân tộc khác” Trong thư gửi những người bạn Pháp ở Đông Dương năm 1946, Người viết: “Các bạn yêu nước Pháp của các bạn và muốn nó độc lập. Các bạn yêu đồng bào của các bạn và muốn họ được tự do… Chúng tôi cũng phải được yêu nước của chúng tôi và muốn nó độc lập chứ! Chúng tôi cũng phải được phép yêu đồng bào chúng tôi và muốn họ được tự do chứ! Cái mà các bạn coi là lý tưởng, cũng phải là lý tưởng của chúng tôi”
Với phong cách tư duy này, Hồ Chí Minh phê phán thói “kiêu ngạo cộng sản”, Người nói: “Vì chúng ta là con của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, chúng ta chỉ biết trung thành với giai cấp vô sản, quyết tâm đấu tranh cho nhân dân. Thế thôi”
Hồ Chí Minh coi công việc chúng ta đang làm hôm nay – giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới, bảo vệ Tổ quốc là sự nối tiếp sự nghiệp cha ông đã mở ra từ mấy nghìn năm trước. Người nói:
“Các vua Hùng đã có công dựng nước,
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Vì “cuộc chiến đấu hiện thời của chúng ta chỉ là kết tinh của cuộc trường kỳ đề kháng mà ông cha, anh em chúng ta đã tiếp tục trong tám mươi năm Pháp thuộc”.
Sự hài hòa, uyển chuyển, lý tưởng và đạo đức nhân văn thể hiện rõ trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Người. Bản thân Lời kêu gọi có sức mạnh giục giã như lời hịch của núi sông, thôi thúc mọi người cầm vũ khí, đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, nhưng lại được viết bằng những lời lẽ rất hòa bình, nhân danh chính nghĩa mà chiến đấu, không hề có một chữ nào nói đến căm thù và chém giết. Trong thư gửi tướng R.Salan – người từng tháp tùng Hồ Chí Minh trong chuyến thăm nước Pháp – vừa được cử làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp thay tướng J.Valluy, Người viết: “Chúng ta từng là những người bạn tốt… Nhưng hoàn cảnh ngoài ý muốn đã biến chúng ta thành hai kẻ đối địch. Điều đó thật đáng tiếc!”…
2. Phong cách làm việc
2.1. Phong cách lãnh đạo
Là lãnh tụ của cách mạng Việt Nam, phong cách làm việc Hồ Chí Minh được thể hiện trước hết ở phong cách lãnh đạo.
2.1.1.Phong cách dân chủ, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Người giải thích: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung”. Người thường nói: đề ra công việc, đẻ ra nghị quyết, không khó, vấn đề là thực hiện nó. Ai thực hiện? – Tập thể, quần chúng. Vì vậy, có dân chủ, bàn bạc tập thể mới cùng nhất trí, cùng quyết tâm thực hiện, tránh được “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Sở dĩ xảy ra mất đoàn kết vì người lãnh đạo còn chuyên quyền, độc đoán, áp đặt chủ quan, trong hội nghị thì mọi người miễn cưỡng đồng tình, sau hội nghị, đã không thông thì không quyết tâm thực hiện.
Phong cách dân chủ Hồ Chí Minh được biểu hiện từ việc lớn cho đến việc nhỏ. Từ soạn thảo Tuyên ngôn độc lập đến viết một bài báo…, Người đều tham khảo ý kiến của Bộ Chính trị, hay những người xung quanh. Người tuân thủ chặt chẽ quy trình ra quyết định. Mọi vấn đề kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, khoa học – kỹ thuật,… Người đều dựa vào đội ngũ trí thức, chuyên gia trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, yêu cầu chuẩn bị kỹ, trao đổi rộng, sao cho mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước phải được cân nhắc, lựa chọn thận trọng, để sau khi ban hành, ít phải thay đổi, bổ sung.
Phong cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh là biết động viên, khuyến khích “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, tức là phải làm cho cấp dưới không sợ nói sự thật và cấp trên không sợ nghe sự thật. Khi cần thiết, để lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân, Người quyết định triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt (1964) – một “Hội nghị Diên Hồng” của thời đại mới.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về phong cách làm việc thật sự dân chủ, tôn trọng tập thể, không phân biệt chức vụ cao thấp. Thực hiện dân chủ, tôn trọng tập thể là vấn đề có tính nguyên tắc xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của đảng kiểu mới.
Theo Người, thực hành dân chủ, tôn trọng các quyết định của tập thể, biết lắng nghe ý kiến mọi người thì sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo và quy tụ được sự đồng tình, ủng hộ của nhiều người, tạo nên sức mạnh to lớn để giải quyết mọi nhiệm vụ. Người đã sớm cảnh báo về hiện tượng mất dân chủ, không tôn trọng tập thể trong công tác cán bộ, nhất là những người có chức, có quyền cao. Phong cách làm việc dân chủ, tôn trọng tập thể của Hồ Chí Minh hoàn toàn đối lập với phong cách làm việc theo kiểu áp đặt mệnh lệnh hành chính, độc đoán chuyên quyền, chủ quan duy ý chí, dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoạn tùy tiện, tự do vô chính phủ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lối làm việc dân chủ, tôn trọng tập thể đi liền với sự quyết đoán, tinh thần trách nhiệm cá nhân.
2.1.2. Tổ chức việc kiểm tra, kiểm soát cụ thể, thường xuyên
Theo Hồ Chí Minh, sau khi nghị quyết đã được ban hành, phải tổ chức tốt để nghị quyết đi vào cuộc sống; điều đó gắn liền với công việc kiểm tra, kiểm soát. Muốn tốt, “phải đi tận nơi, xem tận chỗ”. Sở dĩ sự thật còn bị bưng bít vì sự kiểm tra, kiểm soát của các ngành, các cấp, không nghiêm túc, chưa chặt chẽ, tệ quan liêu còn “nồng”.
Trong thực tiễn, Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về tác phong kiểm tra sâu sát. Theo tài liệu thống kê của Bảo tàng Hồ Chí Minh, chỉ tính trong vòng 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc (1955-1965), không quản tuổi cao, công việc bề bộn, Người đã thực hiện hơn 700 lượt đi thăm các địa phương, công trường, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị bộ đội…, từ miền núi đến hải đảo, ngoài việc thăm hỏi chiến sĩ và đồng bào, để xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Tính ra mỗi năm có hơn 70 lượt Người đi xuống cơ sở, mỗi tháng có khoảng 6 lần lãnh tụ gặp gỡ quần chúng. Đó là một kỷ lục khó ai có thể vượt qua, nhất là đối với một lãnh tụ tuổi đã cao.
Ngoài ra, hằng ngày Người đều đọc báo, đọc thư của nhân dân gửi lên, thấy có những ý kiến hay, cần tiếp thu, những việc gấp cần giải quyết, Người đều dùng bút đỏ đóng khung lại, chuyển tới các cơ quan có trách nhiệm, yêu cầu nghiên cứu và giải quyết.
2.1.3.Phong cách quần chúng, luôn luôn gần dân, tin dân, trọng dân, dựa vào dân, gắn bó với nhân dân
Trong cuộc đời hoạt động của mình Hồ Chí Minh luôn gần gũi với nhân dân, qua đó thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân.
Tư tưởng trọng dân và tin dân nhất quán từ trong suy nghĩ và hành động thường nhật hàng ngày của Hồ Chí Minh. Chính vì trọng dân, tin dân và thương dân, nên Người lấy dân làm đối tượng phục vụ.
Hồ Chí Minh luôn tin dân, tin tưởng vào khả năng và sức mạnh của nhân dân. Phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tư tưởng của Người: “Nước lấy dân làm gốc”
Người nhấn mạnh: “Học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng” “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo” Trong cách làm việc với quần chúng cần phải nắm vững tình hình chất lượng quần chúng, phân loại các hạng mức khác nhau để có biện pháp làm việc cho hiệu quả, mặt khác phải nắm rõ đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của dân chúng là “họ hay so sánh” và họ so sánh đúng vì tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy. Vì thế “người cán bộ cũng phải dùng cách so sánh của dân mà tự mình so sánh” Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ cán bộ phải phê phán và đấu tránh khắc phục cách làm việc quan liêu, mệnh lệnh. Người yêu cầu các đồng chí phụ trách ở các bộ, ban, ngành và Trung ương phải thường xuyên đi kiểm tra và giải quyết công việc tại chỗ, phải chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều, đi kiểm tra giúp đỡ ít.
Trong lãnh đạo, Người xuất phát từ lợi ích của nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của tập thể lên trên, lên trước. Người luôn thực hiện “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”
2.1.4. Phong cách nêu gương
Hồ Chí Minh cho rằng: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, và đối với họ, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo.
Hồ Chí Minh từng dạy: “Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã. Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương trên cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa. Không có gì là khó. Khó như cách mạng mà ta đã làm được và đã thành công. Muốn làm được ta phải: Quyết tâm, trí tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất là các đồng chí phải thành công”. “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” Tự mình phải chính trước mới giúp người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý.
Đề giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, Người chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng này giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”
2.2. Phong cách làm việc khoa học và đổi mới
2.2.1.Phong cách làm việc khoa học, khách quan, trung thực
Hồ Chí Minh yêu cầu làm việc gì cũng phải điều tra, nghiên cứu, thu thập thông tin, số liệu, để nắm chắc thực chất tình hình, “Đảng có hiểu rõ tình hình, thì đặt chính sách mới đúng”. Về phần mình, để nắm tình hình, Người không chỉ dựa vào bộ máy giúp việc, mà còn trực tiếp đi xuống cơ sở. Cách đi của Người thường là không báo trước; xem xét từ ngoài vào trong, từ sau ra trước, từ nơi ăn, chốn ở rồi mới ra chỗ làm việc, hội trường… Người muốn không để ai có thể nói dối mình. Người lên án mọi thói che đậy, bưng bít sự thật, cho đó là dối trá với dân, “dối trá với Đảng, có tội với Đảng”.
Phong cách làm việc khoa học, khách quan, trung thực của Hồ Chí Minh là không hề né tránh những sự việc tiêu cực, thường được đội danh là “nhạy cảm”, càng không cho phép lợi dụng hai chữ “nhạy cảm” để che chắn sai lầm, bưng bít sự thật, bênh che cho nhau. Người coi đó là không trong sạch về đạo đức, không minh bạch về chính trị và không trung thực về khoa học. Người viết: “…một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm cách sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”
Người đã nêu cao tấm gương trung thực, thẳng thắn, thực sự cầu thị của một đảng chân chính cầm quyền. Trong cải cách ruộng đất, Người gạt nước mắt nhận lỗi trước nhân dân.
Hồ Chí Minh làm việc gì cũng có chương trình, kế hoạch, từ lớn đến nhỏ, từ dài hạn, trung hạn đến ngắn hạn, từ tháng, tuần đến ngày, giờ nào việc nấy. Vì làm việc có kế hoạch, dù bận trăm công, nghìn việc của Đảng và Nhà nước, Người lúc nào cũng ung dung, tự tại, vẫn có thời giờ học tập, đọc sách, xem văn nghệ, đi xuống địa phương, đi thăm danh lam, thắng cảnh,… Từ thực tế và kinh nghiệm của mình, Người dạy: trong việc đặt kế hoạch “không nên tham lam, phải thiết thực, vừa sức, từ thấp đến cao, “chớ làm kế hoạch đẹp mắt, to tát, kể hàng triệu, nhưng không thực hiện được”
Hồ Chí Minh rất không bằng lòng với thói quen chậm chạp, tùy tiện, không đúng giờ của nhiều cán bộ, coi đó là thái độ không tôn trọng thời giờ của những người khác. Tháng 11-1945, đến dự lễ tốt nghiệp khóa V Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Người thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây, nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Cách tôi làm việc đúng giờ. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm” Người phê bình một vị tướng đến chậm để mọi người phải đợi, coi 10 phút đến chậm ấy phải “nhân lên với 500 người đợi chú ở đây”…
2.2.2.Phong cách làm việc luôn đổi mới
Hồ Chí Minh có phong cách làm việc không cố chấp, bảo thủ, luôn đổi mới. Người nói: “Tư tưởng bảo thủ như là sợi dây cột chân, cột tay người ta… Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm”. Cuộc đời Người là một tấm gương tuyệt vời về đổi mới, có sức khêu gợi, kích thích sự đổi mới, sáng tạo cho mỗi chúng ta.
Khi dự thảo công văn cho Bác, anh em giúp việc thường dựa vào các văn bản cũ đã được Người duyệt để làm theo. Không ngờ, có lần Người lại vẫn sửa khác đi. Anh em giúp việc có ý thanh minh: Thưa Bác, cháu thấy trong văn bản trước Bác đã thông qua một câu như vậy rồi ạ. Người nói: lần trước Bác chưa nghĩ ra, lần này Bác phải sửa tiếp cho tốt hơn.
Có thể thấy phong cách của Người là luôn luôn đổi mới, không chấp nhận tư duy “lối mòn”, kinh nghiệm chủ nghĩa, mà phải luôn cải tiến để ngày càng tốt hơn. Đó cũng là phong cách mà thời đại đang đòi hỏi.
3. Phong cách diễn đạt
3.1.Cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực
Mở đầu tác phẩm Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã nói rõ chủ kiến của mình: “Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ… Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như hai lần hai là bốn, không tô vẽ, trang hoàng gì cả… Văn chương và hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ: Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh!!!”
3.2.Diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng, có lượng thông tin cao
Bác Hồ thường viết ngắn, có khi rất ngắn: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, chỉ 9 chữ mà khái quát được cả ba giai đoạn đầy biến động của đất nước. Nhiều câu được cô đúc lại như châm ngôn: “Nước lấy dân làm gốc”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, v.v. Chính vì vậy, những tư tưởng lớn của Người trở nên dễ thuộc, dễ nhớ, nhanh chóng đi vào quần chúng, hướng dẫn họ hành động.
3.3.Sinh động, gần gũi với cách nghĩ của quần chúng, gắn với những hình ảnh, sự ví von, so sánh cụ thể
Khi nói, khi viết, Bác Hồ thường kết hợp với kể chuyện, đan xen những câu thơ, câu ca dao có vần điệu, làm cho bài nói hay bài viết trở nên sinh động, gần gũi với lối cảm, lối nghĩ của quần chúng. Người dùng hình ảnh “con đỉa hai vòi” để nói về bản chất của chủ nghĩa đế quốc; ví “lý luận như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành như cái đích để bắn”; “có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”; người đọc nhiều lý luận mà không biết đem thực hành, vận dụng chỉ là “cái hòm đựng sách”…
3.4.Phong cách diễn đạt luôn luôn biến hóa, nhất quán mà đa dạng
Trên cơ sở thống nhất về mục đích nói và viết, phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh thể hiện rất phong phú, phù hợp với nội dung được trình bày. Đó là sự đanh thép với những số liệu rõ ràng khi tố cáo (trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp), sôi nổi trong tranh luận, thiết tha trong kêu gọi, ân cần trong giảng giải, sáng sủa trong thuyết phục… Người dạy: “Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết, phải tỏ rõ cái tư tuởng và lòng ước ao của quần chúng”
4. Phong cách ứng xử
4.1.Khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp
Trong các cuộc tiếp xúc, Người thường khiêm tốn, không bao giờ đặt mình cao hơn người khác, mà trái lại, luôn hòa nhã, quan tâm chu đáo đến những người chung quanh.
Đến thăm một lớp học hay dự một buổi nói chuyện, bao giờ Người cũng chú ý hỏi thăm các vị nhân sĩ, trí thức có danh vọng, các bậc cao tuổi, các đại biểu phụ nữ, rồi trân trọng mời ngồi lên trên, thể hiện phong cách cao nhã, rất mực Á Đông. Tiếp khách tại một khách sạn ở Pa-ri năm 1946, Hồ Chí Minh bắt tay mọi người, nói chuyện thân mật, rất tự nhiên với các phụ nữ Pháp, kèm theo những lời khen áo đẹp, những câu ca tụng nước Pháp… Người Pháp rất có cảm tình với Bác.
4.2.Chân tình, nồng hậu, tự nhiên
Khi gặp gỡ mọi người, với những cử chỉ thân mật, lời hỏi thăm chân tình, hay một câu nói đùa, Người đã tạo ngay ra một bầu không khí thân mật, thoải mái, thân thiết như trong một gia đình.
Hồ Chí Minh luôn xuất hiện với thái độ tươi cười một cách tự nhiên trong ánh mắt hoặc trên đôi môi. Sự vui vẻ với năng khiếu hài hước được thể hiện đa dạng, phong phú đã xóa đi cái cách bức, những nghi thức trịnh trọng không cần thiết, tạo không khí chan hòa, gần gũi giữa lãnh tụ với quần chúng, giữa những người bạn… Điều đó lý giải vì sao mỗi khi Bác Hồ xuất hiện ở đâu là ở đó rộn lên niềm vui và tiếng cười hồ hởi không dứt.
Không chỉ đùa vui với người khác, đôi lúc Người cũng nói đùa về bản thân. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi đến thăm lớp chỉnh huấn giữa lúc mưa to, cả hội trường vang lên tiếng hô “Hồ Chủ tịch muôn năm!”, Người ra hiệu im lặng, rồi nói: Muôn năm làm cái gì?. Trăm năm đã là quá. Còn bây giờ Bác chỉ “muốn nằm” một tí thôi!
Một nét nhân cách nổi bật trong giao tiếp, ứng xử của Hồ Chí Minh là khiêm tốn chân thành, sự thân thiện thực lòng với mọi người, không một chút gợi nào cho sự sùng bái cá nhân.
Sự ân cần, nồng hậu, xóa bỏ mọi nghi thức, đi thẳng đến trái tim con người bằng tình cảm chân thực, tự nhiên, đó chính là nét nổi bật trong phong cách ứng xử của những nhà văn hóa lớn của mọi thời đại.
4.3.Linh hoạt, chủ động, biến hóa
Ứng xử văn hóa Hồ Chí Minh đạt tới sự kết hợp hài hòa giữa tình cảm nồng hậu với lý trí sáng suốt, nên linh hoạt, uyển chuyển, sẵn sàng vì cái lớn mà châm chước cái nhỏ.
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm chính thức nước Pháp. Khi tới Biarít, ra sân bay đón Người chỉ có một mình ông Tỉnh trưởng, sau đó họ đưa Người về nghỉ tại một khách sạn khá sang, nhưng bên ngoài vẫn còn sơn phết dang dở. Chị Phương Tiếp, một trí thức Việt kiều, được cử làm phiên dịch cho Người, tỏ ý thắc mắc về sự đón tiếp không được trịnh trọng: “Tại sao họ chưa có chính phủ mà Cụ đã sang?”. Người trả lời hóm hỉnh: “Thế nếu có chính phủ rồi, họ đổi ý không mời mình sang nữa thì sao?”. Với tầm suy nghĩ vừa xa rộng, vừa uyển chuyển, Người đã tranh thủ được một cơ hội đưa lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc ta tới Pari, vào lúc nước ta chưa được một quốc gia nào công nhận.
5. Phong cách sống
5.1. Sống cần, kiệm, liêm, chính
Cả trong lời nói và việc làm, Hồ Chí Minh luôn luôn tự mình thực hiện cần, kiệm, liêm, chính.
Về ăn, khi ở Pari hoa lệ hay lúc về hoạt động bí mật tại vùng Pác Bó, kể cả khi đã trở thành Chủ tịch nước, Người vẫn thích lối ăn đạm bạc, mang tính truyền thống quê hương. Có “của ngon, vật lạ”, Người thường không chịu ăn một mình, san sẻ đều cho những người cùng đi, để phần cho người đi vắng… Khi ăn xong, bao giờ Người cũng sắp xếp lại mâm, bát cho gọn ghẽ, thể hiện sự tôn trọng đối với người phục vụ của mình.
Về mặc, quần áo và cách mặc của Bác Hồ cũng vô cùng giản dị, gần gũi và thân quen như mọi người xung quanh mà vẫn lịch sự, tao nhã. Khi ở miền núi, Người mặc bộ đồ chàm như một ông ké người Nùng. Đến với nông dân, Người mặc bộ cánh nâu, khăn mặt vắt vai, như một lão nông, đi dép cao su như mọi người lính. Đi chiến dịch, Người mặc bộ quân phục như một chiến binh. Hành trang của vị Chủ tịch nước, là thượng khách của nước Pháp, cũng chỉ có hai bộ quần áo ngoài, một bộ bằng kaki, một bộ bằng dạ cùng vài bộ đồ lót, vừa xếp gọn trong chiếc valy nhỏ. Dùng lâu, cổ áo và tay áo đã sờn, Người vẫn không chịu cho may bộ mới…
Về chỗ ở, Hồ Chí Minh đề ra là gần gũi với thiên nhiên: “trên có núi, dưới có sông; có đất ta trồng, có bãi ta chơi; nhà thoáng ráo, kín mái; gần dân, không gần đường”. Chính vì vậy mà sau khi giải phóng Thủ đô, về Hà Nội, Người không chịu vào ở trong Dinh Toàn quyền, nói thác là vì “nó có mùi thực dân”!
Trong sinh hoạt đời thường, việc gì có thể làm, Người đều tự làm lấy, không muốn phiền người khác. Thật cảm động và gần gũi khi xem hình ảnh dọc đường đi công tác, Người tắm suối, tự giặt lấy quần áo, phơi lên sào rồi vác vai đi tiếp, bình dị, tự nhiên như một lão nông, thật gần gũi với chúng ta.
Mỗi khi đi công tác đến cơ sở, Bác ít khi báo trước, hoặc yêu cầu địa phương không được tổ chức đón tiếp linh đình. Người dặn, đi thế này mới thấy sự thật. Nếu báo trước thì không thấy gì hết. Thế rồi địa phương lại lấy cớ ta ăn mà mổ gà, mổ lợn. Đoàn công tác ăn một, cán bộ địa phương ăn hai và kết quả cuối cùng là cái gì? Nhân dân lại è vai ra mà gánh… Khi đi công tác ở cơ sở, Bác dặn dò các đồng chí ở Văn phòng Chính phủ phải luôn chuẩn bị mọi thứ để ăn trưa nếu làm việc quá giờ.
5.2.Sống hài hòa, kết hợp nhuần nhuyễn văn hóa Đông – Tây
Đó là phong cách sống vừa thấm nhuần văn hóa Nho – Phật – Lão, vừa chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Âu – Mỹ nhưng luôn giữ vững, yêu quý và tự hào về văn hóa Việt Nam.
Đoạn văn của cụ Hoàng Đạo Thúy đã khái quát được phong cách đặc sắc ấy: Mấy nhà nho cũ thấy Cụ ngồi cạnh cái hòm nhỏ như cái tráp, hí hoáy viết, bảo rằng Cụ là một ông đồ Nghệ. Đeo kính vào nữa thì rõ ràng là một ông đốc học. Những người đi nước ngoài về, hay quen đọc sách Tây, bảo Cụ cực kỳ văn minh, như người châu Âu lịch sự ấy. Nghệ sĩ nghe Cụ nói về một tác phẩm, thấy ngay Cụ là một đồng sự của mình. Cụ tiếp cụ Võ Liêm Sơn, tặng quạt, làm thơ tiễn, thì Cụ là một nhà đạo đức văn chương bậc thầy. Một người Pháp nghe Cụ nói chuyện, cảm như là đến nhà một ông bác ở bên bờ sông Xen. Tay nâng chén rượu chúc mừng, rất trang trọng, mà vung cây đũa đánh nhịp cũng vô cùng là tự nhiên…
5.3.Tôn trọng quy luật tự nhiên, gắn bó với thiên nhiên
Những người được sống bên Bác cho biết: chưa bao giờ thấy Người phàn nàn về thời tiết, mưa không bực, nắng không than, bình thản trước mọi diễn biến của đất trời, dung mạo lúc nào cũng vui vẻ, trán không nhăn, mày không nhíu, mát mẻ như mùa thu, ấm áp như mùa xuân, cứ thuận theo tự nhiên mà sống.
Như mọi trí thức phương Đông khác, những khi rỗi rãi, Người cũng làm thơ – thơ trữ tình – nhiều bài bằng chữ Hán. Trong thơ có trăng có hoa, mai vàng, tuyết trắng, chim rừng về tổ, mây lượn tầng không, có hoàng hôn, nắng sớm… Tất cả đều được nhân cách hóa, giao hòa với con người. Điều khác biệt ở Người là “tiên” mà không thoát tục, vẫn luôn gắn bó với dân, với nước, vẫn theo đuổi khát vọng nhân văn cao cả.
Khi đã ngoài 70 tuổi, tuy vẫn còn minh mẫn, nhưng sức khỏe đã kém đi và đang giữ trọng trách lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Người chủ động từng bước chuyển giao cho lớp kế cận đã được đào tạo. Người chủ động viết “Di chúc” với những lời dặn dò tâm huyết với Đảng; để lại muôn vàn tình thương cho bộ đội, chiến sĩ, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, lời chào và sự mong muốn đoàn kết với bạn bè quốc tế… Người công khai nói lên một ước muốn và một điều tiếc…; tất cả đều là từ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Phần thứ ba
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC,
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. Thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
1- Về Mục đích, yêu cầu của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: là nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong Đảng, hệ thống chính trị và nhân dân, đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thành công việc tự giác, thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị – xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, trước hết là của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên.
– Việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được xác định là “một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”.
– Tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Về nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bao gồm:
– Hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh
– Các quan điểm và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
– Phong cách Hồ Chí Minh, gồm: phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hoá, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong cách nói đi đôi với làm, đi vào lòng người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng, dân chủ, tự mình nêu gương,…
3- Về phương thức thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là:
– Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nghị quyết của cấp uỷ và nội dung sinh hoạt thường xuyên của chi bộ, gắn với các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị;
– Gắn với việc xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam, xây dựng hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
– Lấy kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm.
4- Những công việc chủ yếu thực hiện Chỉ thị là:
– Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai thực hiện theo phương châm trên trước, dưới sau; trong trước, ngoài sau; học đi đôi với làm theo, chú trọng việc làm theo bằng những hành động và việc làm cụ thể.
– Xây dựng, tổng kết và nhân rộng những điển hình tiên tiến về làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, kết hợp giữa “xây” với “chống”.
– Đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước để nêu gương của người đứng đầu và cán bộ chủ chốt các cấp, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
– Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với đánh giá, nhận xét cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức hằng năm và cả nhiệm kỳ.
– Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị với phương châm “sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện và đánh giá việc thực hiện”. Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ.
– Tiếp tục chỉ đạo biên soạn chương trình, giáo trình về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để giảng dạy trong hệ thống giáo dục quốc dân và các học viện, trường chính trị, trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, bảo đảm phù hợp với từng cấp học, bậc học và với yêu cầu giáo dục, đào tạo.
Thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị, ngày 25 tháng 7 năm 2016 Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Kế hoạch 03 triển khai thực hiện.
II. Giải pháp tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Một là, thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành vô hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, thực hiện đúng lời dạy: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ.
Bốn là, nâng cao trách nhiệm và tính tiên phong gương mẫu.
Năm là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
III. Đẩy mạnh xây dựng Đảng về đạo đức
Báo cáo Chính trị được thông qua tại Đại hội XII của Đảng đã nêu 4 nhóm nhiệm vụ chính trong xây dựng Đảng về đạo đức như sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Hai là, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, “nói không đi đôi với làm”.
Ba là, xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị.
Bốn là, thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
IV. Những công việc cần thực hiện:
1-Cơ sở pháp lý:
– Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị
– Kế hoạch o3-KH/TW của Ban Bí thư
– Hướng dẫn 08-HD/BTGTW của Ban Tuyên giáo Trung ương
– Kế hoạch số 23- KH/TU, ngày 13-12-2016 về học tập, quán triệt và tuyên truyền các NQTW 4 khóa XII và Những nội dung cơ bản về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
– Kế hoạch số 24 -KH/TU, ngày 15 -12 -2016 về thực hiện chỉ thị số 05 – CT/TW, ngày 15 – 5 -2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
2-Nội dung:
– Tổ chức nghiên cứu, quán triệt kỹ Chỉ thị 05-CT/TW, chú ý những điểm mới;
– Tổ chức học tập, liên hệ về chủ đề 2016: Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;
– Xây dựng, thông qua chương trình, kế hoạch thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW trong toàn khóa, gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, các nghị quyết của BCHTW khóa XII, với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, quán triệt trong toàn đảng bộ;
– Lựa chọn những vấn đề bức xúc, nổi cộm, được dư luận quan tâm, tập trung thực hiện có kết quả cụ thể; thực hiện tốt “Xây đi đôi với chống. Xây dựng là cơ bản, lâu dài; chống là cấp bách trước mắt”.
– Tổ chức thực hiện vai trò, trách nhiệm nêu gương trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở cơ quan, đơn vị địa phương;
– Quan tâm đến giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa, nhân cách trong cơ quan đơn vị; giáo dục thanh thiếu niên…
***********
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất. Người đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một di sản tư tưởng, đạo đức, phong cách vô cùng quý giá; là ngọn đuốc soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là yêu cầu, trách nhiệm, nhưng đồng thời cũng là tình cảm, là nguyện vọng tha thiết của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam yêu nước, để xây dựng một đất nước Việt Nam giàu đẹp, dân chủ; dân tộc Việt Nam độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam ấm no, hạnh phúc./.
Nguồn: www.tuyengiaokontum.org.vn-HT