Câu hỏi 1: Vì sao Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII thành công tốt đẹp?
Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII được tổ chức thành công tốt đẹp thể hiện trên 5 phương diện:
Thứ nhất, việc chuẩn bị dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc XIII được tiến hành công phu, chu đáo, bài bản, qua nhiều lần, nhiều vòng, từng bước hoàn thiện, có nhiều đổi mới quan trọng về nội dung và phương pháp. Báo cáo chính trị được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu vận dụng chủ trương, định hướng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chiến lược, các chương trình mục tiêu quốc gia có liên quan trực tiếp tới công tác phụ nữ và bình đẳng giới thông qua triển khai 19 đề tài[1], 07 chuyên đề nghiên cứu và 04 hội thảo khoa học cấp quốc gia, vùng miền, chuyên đề; Chiến lược phát triển Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2035; Phát huy dân chủ trí tuệ thông qua lấy ý kiến đóng góp từ Đại hội phụ nữ 3 cấp; tổ chức 42 cuộc họp/hội thảo xin ý kiến Đoàn Chủ tịch, Ban Chấp hành TW Hội; các chuyên gia, đại diện các ban Đảng, bộ, ngành, đoàn thể. Trong quá trình soạn thảo Báo cáo chính trị, Đoàn Chủ tịch TW Hội đã nhận được sự chỉ đạo sát sao của Ban Bí thư, cập nhật được sự thay đổi của tình hình, nhất là tác động của đại dịch Covid-19.
Thứ hai, sự thành công về công tác nhân sự, kỹ lưỡng, nhiều mặt, chặt chẽ, dân chủ, khách quan, công tâm để Đại hội bầu được Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam khóa XIII có đủ phẩm chất, năng lực đảm nhận được nhiệm vụ nhiệm kỳ tới.
Thứ ba, việc đa dạng các hình thức thảo luận, trao đổi thông tin cũng là điểm đổi mới trong kỳ Đại hội lần này. Tại Đại hội đã có 62 tham luận dạng bài viết và video clip được tập hợp thành kỷ yếu để các cấp Hội tiếp tục nghiên cứu, áp dụng trong quá trình triển khai Nghị quyết Đại hội. Trong đó, có 18 tham luận và 10 clip trình bày tại các phiên toàn thể của Đại hội. Việc chia 5 Trung tâm thảo luận với các chủ đề khác nhau là diễn đàn để các đại biểu tham gia tập trung, sâu theo các nhóm chủ đề. Đồng thời, Đại hội tổ chức thảo luận theo đoàn về các nội dung: Xây dựng các sáng kiến hành động vì phụ nữ và trẻ em và hoạt động cụ thể triển khai Nghị quyết Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc XIII sau khi kết thúc Đại hội. Kết quả: 70 đoàn đại biểu đã xác định 260 hoạt động cụ thể để triển khai Nghị quyết. Đối với các sáng kiến về phụ nữ và trẻ em: 959 đại biểu đã xác định được 5.761 sáng kiến vì phụ nữ và trẻ em tập trung vào các lĩnh vực: đảm bảo quyền của phụ nữ và trẻ em; chăm sóc về vật chất, tinh thần cho phụ nữ.
Thứ tư, công tác tuyên truyền trước, trong sau Đại hội được thực hiện rầm rộ, sôi nổi, khí thế ở tất cả các cấp Hội trong cả nước. Nội dung tuyên truyền được chuẩn bị sớm, kỹ lưỡng với nhiều hình thức truyền thông trên nhiều nền tảng mạng xã hội mang lại hiệu quả truyền thông tích cực. Nhiều tỉnh/thành phố phổ biến tuyên truyền cho cán bộ, hội viên phụ nữ theo dõi truyền hình trực tiếp phiên khai mạc Đại hội, phát trailer về Đại hội trên các trang Fanpage, nhiều tin bài, phóng sự về Đại hội được đăng tải thực hiện trên các Đài, báo trung ương và địa phương.
Thứ năm, công tác tổ chức Đại hội về hậu cần, an ninh đảm bảo chu đáo, an toàn. Trong quá trình tổ chức, Đại hội đã nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình từ các đơn vị, tổ chức đã đồng hành cùng Hội LHPN Việt Nam để tổ chức thành công sự kiện.
Câu hỏi 2: Kết quả chủ yếu trong 5 năm của phong trào phụ nữ và kết quả hoạt động của Hội nhiệm kỳ 2017 – 2022?
5 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự tạo điều kiện của Chính phủ, chính quyền các cấp, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban, ngành, đoàn thể và toàn xã hội, các lực lượng phụ nữ và các cấp Hội LHPN Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XII, nhiệm kỳ 2017 – 2022. Có thể kể đến năm điểm nổi bật của phong trào phụ nữ nhiệm kỳ qua:
Một là, các tầng lớp phụ nữ đã nỗ lực vượt khó, sáng tạo vươn lên, mạnh dạn ứng dụng khoa học công nghệ, phát huy vai trò làm chủ, tham gia tích cực vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên mọi khu vực, ngành nghề của nền kinh tế, lực lượng lao động nữ, nữ doanh nhân đã đóng góp đáng kể vào thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới, chương trình quốc gia khởi nghiệp, góp phần khẳng định chất lượng và khả năng cạnh trạnh của sản phẩm Việt trên thị trường quốc tế.
Hai là, với nỗ lực quyết tâm của cả hệ thống chính trị, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước, đặc biệt, lần đầu tiên kể từ khi đất nước thực hiện công cuộc Đổi mới, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 30%, tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước. Phụ nữ ngày càng ý thức được trách nhiệm và quyền công dân, phát huy quyền làm chủ, tham gia tích cực trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Ba là, phụ nữ tiếp tục thực hiện tốt thiên chức người mẹ, người thầy đầu tiên của con người, là điểm tựa tinh thần, gắn kết yêu thương và chia sẻ trách nhiệm chăm lo xây dựng gia đình. Bằng tình yêu thương và trách nhiệm, phụ nữ đã trao truyền các giá trị văn hóa gia đình, đóng vai trò quan trọng trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Bốn là, trong bối cảnh thiên tai khắc nghiệt và dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, phụ nữ cả nước bằng tấm lòng yêu thương, nhân ái, đã phát huy cao độ trách nhiệm công dân, tham gia trên mọi mặt trận góp phần thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, ổn định cuộc sống.
Năm là, trong tiến trình hội nhập toàn diện của đất nước, phụ nữ trong lực lượng vũ trang và lĩnh vực đối ngoại tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, góp phần không nhỏ vào công cuộc bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh đất nước, khẳng định cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín của Việt Nam như một thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Đối với việc thực hiện nhiệm vụ công tác Hội, nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước diễn biến nhanh, phức tạp, có những vấn đề phát sinh chưa có tiền lệ, Hội LHPN các cấp đã nhanh chóng thích ứng, sáng tạo, linh hoạt đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức Hội vững mạnh để đoàn kết, tập hợp các tầng lớp phụ nữ triển khai thắng lợi phong trào thi đua, các cuộc vận động và nhiệm vụ công tác Hội, góp phần nâng cao chất lượng đời sống mọi mặt cho hội viên, phụ nữ. Có thể khái quát ở tám kết quả nổi bật như sau:
Một là, công tác tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ rèn luyện phẩm chất đạo đức “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” gắn với học tập, làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục được đổi mới với nhiều hình thức và mô hình phong phú, tạo thành thói quen, việc làm thường xuyên của cán bộ, hội viên, phụ nữ với hàng chục nghìn tấm gương tiêu biểu học và làm theo Bác. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, các cấp Hội đã thích ứng linh hoạt bằng việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong nắm tình hình tư tưởng, truyền thông, vận động xã hội, phổ biến, giáo dục pháp luật đến hàng chục triệu hội viên, phụ nữ cả nước.
Hai là, công tác tuyên truyền, vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, trọng tâm là cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” được triển khai đồng bộ, toàn diện, đã đóng góp đáng kể vào kết quả thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Đáng chú ý, 13 triệu gia đình hội viên đạt tiêu chí “5 không, 3 sạch”, gần 17 nghìn công trình/phần việc giữ gìn, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu do các chi Hội/tổ phụ nữ đảm nhiệm được triển khai linh hoạt, rộng khắp, làm thay đổi bộ mặt nông thôn và khẳng định vai trò của tổ chức Hội ở cơ sở.
Ba là, với chủ đề xuyên suốt trong hơn nửa nhiệm kỳ, “An toàn cho phụ nữ và trẻ em”, các cấp Hội đã triển khai nhiều mô hình, hoạt động góp phần nâng cao trách nhiệm của xã hội và gia đình chung tay xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh. Hoạt động phối hợp trong tham gia giải quyết các vụ việc xâm hại và bạo lực nghiêm trọng đối với phụ nữ và trẻ em có chuyển biến rõ rệt và thực chất. Trong nhiệm kỳ đã ký kết phối hợp với 30 bộ/ngành, các cơ quan/tổ chức, trong đó có nhiều chương trình phối hợp để bảo vệ quyền của phụ nữ trẻ em, tạo nguồn lực cho các cấp Hội thực hiện nhiệm vụ chính trị và tăng cường lồng ghép giới trong tổ chức triển khai các chương trình phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đất nước. Vận động được trên 480 tỷ đồng và 730 nghìn phần quà san sẻ yêu thương cho hội viên, phụ nữ và nhân dân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19; đỡ đầu gần 500 trẻ mồ côi. Trong nhiệm kỳ đã vận động được 746 tỷ đồng xây dựng và sửa chữa mái ấm tình thương và trên 3.000 tỷ đồng cho các hoạt động xã hội, từ thiện.
Bốn là, các hoạt động hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế được triển khai theo hướng tập trung đồng bộ các giải pháp, các nguồn lực, phát huy được nội lực của hội viên, phụ nữ, tiềm năng thế mạnh của từng địa phương, phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Thông qua các mô hình sinh kế tạo việc làm tại chỗ, mô hình hỗ trợ có điều kiện, các hoạt động tiết kiệm tại chi Hội/tổ Phụ nữ, các cấp Hội đã giúp hơn 2 triệu hộ nghèo, trong đó có gần 270 nghìn hộ thoát nghèo theo tiêu chí đa chiều. Với tinh thần quốc gia khởi nghiệp, Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025” đã thúc đẩy sự chủ động, sáng tạo của các cấp Hội trong tổ chức Ngày Phụ nữ khởi nghiệp, đề xuất các đề án/chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, đáp ứng khát vọng khởi nghiệp của phụ nữ thuộc nhiều thành phần, lứa tuổi, qua đó đã hỗ trợ gần 73 nghìn phụ nữ khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh; gần 12 nghìn mô hình kinh tế tập thể, gần 800 hợp tác xã được thành lập.
Năm là, nội dung, phương thức hoạt động của các cấp Hội tiếp tục được đổi mới, hướng mạnh về cơ sở, chú trọng địa bàn có tỷ lệ tập hợp hội viên thấp, nâng cao chất lượng tổ chức Hội cơ sở. Bên cạnh mô hình tập hợp phụ nữ theo địa bàn hành chính, nhiều nơi đã mạnh dạn triển khai nhiều mô hình tập hợp phụ nữ theo lứa tuổi, sở thích, ngành nghề; thu hút phụ nữ tham gia hoạt động Hội thông qua nền tảng mạng xã hội. Từ đó góp phần tăng thêm 2 triệu hội viên và giảm 99,2% số cơ sở Hội có tỷ lệ tập hợp dưới 50% phụ nữ tham gia tổ chức Hội trong nhiệm kỳ (đến cuối nhiệm kỳ chỉ còn 8 cơ sở); tỷ lệ tập hợp hội viên đạt 75,42%. Đặc biệt trong bối cảnh sắp xếp lại các đơn vị hành chính và yêu cầu tỉnh giản biên chế, các cấp Hội đã chú trọng kiện toàn bộ máy cơ quan chuyên trách, cải tiến phương pháp làm việc, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ Hội các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Sáu là, công tác tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, giám sát và phản biện xã hội, tham mưu, đề xuất chính sách của các cấp Hội ngày càng đi vào thực chất, tiệm cận với nhu cầu thiết thân của phụ nữ. Công tác phản biện xã hội đối với các dự thảo chính sách, luật pháp ngày càng có chất lượng, dựa trên bằng chứng khoa học, khảo sát thực tiễn, tham vấn các đối tượng hưởng lợi/bị tác động. Hội Liên hiệp Phụ nữ một số tỉnh/thành phố đã chủ động tham mưu tổ chức đối thoại với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để nắm bắt và giải quyết kịp thời các bức xúc, kiến nghị chính đáng của hội viên, phụ nữ. Đây thực sự là diễn đàn thực hành dân chủ, tạo sự đồng thuận, gắn kết “ý Đảng, lòng dân”, thể hiện trách nhiệm của các cấp Hội trong phát huy quyền dân chủ trực tiếp của phụ nữ.
Bảy là, công tác đối ngoại nhân dân và hợp tác quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu. Hội đã có nhiều sáng kiến thể hiện tình đoàn kết quốc tế, chủ động, khéo léo tham gia đấu tranh, vận động bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc tại các cơ chế quốc tế, góp phần thúc đẩy cam kết hành động thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, tiến bộ của phụ nữ. Trong nhiệm kỳ chỉ riêng Trung ương Hội đã vận động được 9,1 triệu đô la Mỹ cho các mô hình hoạt động mới và nâng cao năng lực cán bộ. Nghị quyết Hỗ trợ phụ nữ hội nhập quốc tế lần đầu tiên được ban hành là cơ sở quan trọng trong mở rộng quan hệ đối tác, đáp ứng yêu cầu công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới.
Tám là, trong nhiệm kỳ, Trung ương Hội đã tham mưu đề xuất thành công 03 Đề án của Chính phủ, cụ thể hóa nội dung hỗ trợ phụ nữ trong 03 chương trình mục tiêu quốc gia; các tỉnh/thành Hội tiếp tục tham mưu, đề xuất xây dựng hơn 600 chính sách trong nhiều lĩnh vực thiết thân đối với phụ nữ, qua đó huy động nguồn lực và sự tham gia của các cấp, các ngành vào công tác phụ nữ và bình đẳng giới. Đặc biệt lần đầu tiên Hội được phân công xây dựng và chủ trì triển khai một dự án về thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em trong chương trình mục tiêu quốc gia “Phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2021-2030” đã khẳng định vai trò nòng cốt của tổ chức Hội trong thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và phát triển của phụ nữ.
Với những kết quả đó, trong nhiệm kỳ qua, trên 8.000 tập thể và 3.000 cá nhân đã được tặng Bằng khen của Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam; gần 105.162 nghìn công trình, phần việc trị giá trên 625 tỉ đồng hướng tới chào mừng Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII.
Câu hỏi 3: Việc xây dựng mục tiêu, chỉ tiêu và các nhiệm vụ hoạt động công tác Hội trong nhiệm kỳ mới và nhiều năm tiếp theo được dựa trên quan điểm nào?
Lần đầu tiên, Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam xác định trong một văn kiện 5 quan điểm có tính định hướng, đồng thời xác định tính chất, tầm quan trọng của các nhiệm vụ công tác Hội. Năm quan điểm là:
1. Bám sát, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc, căn cứ thực tiễn và yêu cầu của phong trào phụ nữ trong giai đoạn mới, là cơ sở cho việc nâng cao chất lượng hoạt động Hội, thực hiện tốt chức năng đại diện, vai trò nòng cốt chính trị trong công tác phụ nữ của tổ chức Hội.
2. Lấy phát huy và kế thừa truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết của phụ nữ, đồng thời chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng, đồng hành giải quyết các vấn đề thiết thân của phụ nữ là nhiệm vụ xuyên suốt; lấy hạnh phúc và lợi ích của phụ nữ là mục tiêu; lấy sự đồng thuận và tin tưởng của phụ nữ là thước đo chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức Hội.
3. Tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, chủ động tham mưu, đề xuất hoàn thiện luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới, thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Hội.
4. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; đẩy mạnh hội nhập quốc tế; mở rộng tính liên hiệp, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện là nhiệm vụ then chốt để xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả.
5. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, sáng tạo, tâm huyết, trách nhiệm, giỏi vận động phụ nữ, có khát vọng cống hiến là nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức Hội.
Câu hỏi 4: Mục tiêu tổng quát và chỉ tiêu cụ thể trong 5 năm (nhiệm kỳ 2022 – 2027) được Đại hội đề ra như thế nào?
Mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới là:
Phát huy truyền thống, tinh thần đoàn kết, sáng tạo, chủ động hội nhập, ý thức làm chủ của các tầng lớp phụ nữ; xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, tích cực xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ. Phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Hội LHPN Việt Nam, khẳng định vị thế tổ chức tiên phong hành động vì hạnh phúc của phụ nữ, có tầm ảnh hưởng trong khu vực và quốc tế; góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước.
Đại hội đã thống nhất 08 chỉ tiêu cơ bản của nhiệm kỳ 2022- 2027:
(1) Hằng năm, mỗi cơ sở Hội duy trì thường xuyên ít nhất 01 loại hình hoạt động để vận động phụ nữ nâng cao kiến thức, trau dồi đạo đức, rèn luyện sức khỏe.
(2) Hằng năm giúp 33.500 hộ có phụ nữ thoát nghèo, thoát cận nghèo; hỗ trợ nâng cao năng lực cho 17.000 phụ nữ là chủ doanh nghiệp, quản lý hợp tác xã, chủ hộ kinh doanh; đến cuối nhiệm kỳ, vận động, hỗ trợ thành lập mới 350 hợp tác xã có phụ nữ tham gia quản lý.
(3) Đến cuối nhiệm kỳ, các cấp Hội hỗ trợ 80% phụ nữ, trẻ em gái là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân mua bán người trở về được phát hiện tiếp cận ít nhất một dịch vụ trợ giúp xã hội.
(4) Hằng năm, mỗi cơ sở Hội vận động, hỗ trợ thêm 05 hộ gia đình đạt tiêu chí “gia đình 5 không, 3 sạch” hoặc “gia đình 5 có[2], 3 sạch” (đối với địa bàn xây dựng nông thôn mới nâng cao/kiểu mẫu), phấn đấu cả nước giúp được thêm 55.000 hộ gia đình đạt 8 tiêu chí; mỗi cơ sở Hội đăng ký và thực hiện 01 công trình/phần việc góp phần xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh.
(5) Đến cuối nhiệm kỳ, tăng thêm 800.000 hội viên; phấn đấu 100% cơ sở Hội tập hợp được trên 60% phụ nữ có mặt tại địa bàn.
(6) Đến cuối nhiệm kỳ, 100% cán bộ Hội chuyên trách các cấp sử dụng thành thạo các phần mềm cơ bản trong công tác Hội; 100% chi hội trưởng được tập huấn nghiệp vụ công tác Hội.
(7) Hằng năm, Hội LHPN cấp trung ương và cấp tỉnh chủ trì giám sát ít nhất 01 chính sách và phản biện xã hội ít nhất 01 dự thảo văn bản liên quan đến phụ nữ, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và tổ chức Hội; mỗi Hội LHPN cấp huyện, cấp xã giám sát ít nhất 01 chính sách và góp ý ít nhất 01 dự thảo văn bản của cấp ủy, chính quyền.
(8) Đến cuối nhiệm kỳ, Hội LHPN cấp trung ương đề xuất thành công ít nhất 05 chính sách, đề án; Hội LHPN cấp tỉnh đề xuất thành công ít nhất 01 chính sách, đề án liên quan đến phụ nữ.
Câu hỏi 5: Nghị quyết lần này tiếp tục phát động những phong trào thi đua, cuộc vận động và đề ra các khâu đột phá nào trong nhiệm kỳ 2022 – 2027?
Đại hội đã phát động cán bộ, hội viên, phụ nữ cả nước thực hiện:
Phong trào thi đua “Xây dựng người Phụ nữ Việt Nam thời đại mới” gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”
Hai Khâu đột phá: (1) Đổi mới phương thức hoạt động Hội, trọng tâm là ứng dụng công nghệ thông tin; (2) Tập trung xây dựng cơ sở Hội vững mạnh.
Câu hỏi 6: Kết quả bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam khóa XIII, nhiệm kỳ 2022 – 2027?
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Hội LHPN Việt Nam khóa 13 gồm 155/163 uỷ viên, đảm bảo tính kế thừa, liên hiệp, đại diện tiêu biểu cho các lực lượng phụ nữ trong cả nước, có đủ tiêu chuẩn, phẩm chất, năng lực, tâm huyết và cam kết vì sự nghiệp bình đẳng giới, sự phát triển của phụ nữ Việt Nam.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành lần thứ nhất đã bầu 31 chị tham gia Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam khoá XIII; 100% Uỷ viên Ban Chấp hành có mặt đã bầu Thường trực Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội khóa XIII gồm:
1. Bà Hà Thị Nga, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.
2. Bà Tôn Ngọc Hạnh – Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.
3. Bà Nguyễn Thị Minh Hương – Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.
4. Bà Trần Lan Phương – Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.
5. Bà Đỗ Thị Thu Thảo – Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam.
Câu hỏi 7: Nội dung chính của 03 nhiệm vụ trọng tâm ?
Nhiệm vụ 1: Hỗ trợ phụ nữ phát triển toàn diện, xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh
Nội dung trọng tâm của nhiệm vụ:
– Xây dựng người phụ nữ Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, hội nhập quốc tế.
– Xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; xây dựng môi trường an toàn cho phụ nữ, trẻ em.
– Hỗ trợ nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ.
Nhiệm vụ 2: Tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị; chú trọng giám sát, phản biện xã hội; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới
Nội dung trọng tâm của nhiệm vụ:
– Tuyên truyền, vận động hội viên, phụ nữ thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
– Nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đề xuất chính sách liên quan đến phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình đẳng giới.
– Thực hành dân chủ cơ sở, thực hiện hiệu quả chức năng đại diện của tổ chức Hội, hỗ trợ phụ nữ phát huy quyền làm chủ, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
– Vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới.
Nhiệm vụ 3: Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả, hội nhập quốc tế
Nội dung trọng tâm nhiệm vụ 3:
– Phát triển mạng lưới, thu hút hội viên, thành viên.
– Nâng cao chất lượng cán bộ, kiện toàn bộ máy tổ chức Hội các cấp.
– Xây dựng văn hóa tổ chức, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, điều hành bộ máy cơ quan chuyên trách và hệ thống Hội.
– Nâng cao vị thế, mở rộng ảnh hưởng của tổ chức Hội trong quan hệ đối ngoại.
Câu hỏi 8: Trung ương Hội sẽ đề xuất các chính sách, chương trình cụ thể nào trong nhiệm kỳ 2022 – 2027 ?
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên và cũng xác định đầu ra cụ thể cho các nỗ lực của Hội, Báo cáo chính trị nêu dự kiến đến cuối nhiệm kỳ, TW Hội sẽ đề xuất thành công ít nhất 05 chính sách, đề án và 02 chương trình, Cụ thể là:
05 chính sách, đề án:
(1) Chính sách chi trả bảo hiểm y tế cho tầm soát một số bệnh ung thư thường gặp ở phụ nữ.
(2) Chương trình/đề án/chính sách đặc thù bảo vệ và hỗ trợ phụ nữ khuyết tật, cao tuổi, lao động nữ di cư.
(3) Chính sách hoặc đề án hỗ trợ cha mẹ có con dưới 36 tháng tuổi gửi trẻ ở vùng có khu công nghiệp, khu chế xuất, đông lao động nữ di cư.
(4) Đề án hỗ trợ hợp tác xã do phụ nữ tham gia quản lý và tạo việc làm cho lao động nữ giai đoạn 2022 – 2030.
(5) Đề án chuyển đổi số trong hệ thống Hội LHPN Việt Nam giai đoạn 2025 – 2030.
02 chương trình:
(1) Chương trình hỗ trợ một triệu phụ nữ nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, tiếp cận Chính phủ số.
(2) Chương trình bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và kỹ năng lồng ghép giới cho 3.500 cán bộ nữ.
Câu 9: Hội viên, phụ nữ thực hiện hiệu quả 03 nhiệm vụ trọng tâm trên bằng cách nào ?
– Phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự hào truyền thống dân tộc; giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của gia đình của phụ nữ Việt Nam.
– Mỗi phụ nữ có hành động cụ thể rèn luyện các tiêu chí của phong trào thi đua “Xây dựng người Phụ nữ Việt Nam thời đại mới”, các tiêu chí cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” hoặc “Xây dựng gia đình 5 có, 3 sạch” góp phần xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh, tạo nếp sống văn minh, xây dựng gia đình văn hóa tại khu dân cư; là tấm gương sáng cho các thế hệ trong gia đình, cộng đồng về rèn luyện 4 phẩm chất đạo đức.
– Chủ động, tích cực, không ngừng học tập bằng nhiều hình thức, học tập ở mọi nơi, mọi lúc; nỗ lực nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng sống, các kỹ năng đáp ứng yêu cầu hội nhập. Luôn có tinh thần học hỏi, cầu thị, sáng tạo, nỗ lực trong lao động, sản xuất, kinh doanh để chọn lọc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới phù hợp vào sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao. Tích cực, chủ động đọc sách, báo, tài liệu để nắm bắt thông tin, kiến thức phục vụ cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh, tổ chức cuộc sống gia đình hạnh phúc.
– Nghiêm túc, tự giác, gương mẫu chấp hành và vận động người thân trong gia đình, mọi người trong cộng đồng chấp hành chủ trương đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước với tinh thần “thượng tôn pháp luật”; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước tại địa phương; chấp hành Điều lệ Hội LHPN Việt Nam. Nghiêm túc thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân.
– Tự giác tìm hiểu, tuân thủ pháp luật; tích cực tham gia ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; phát hiện, phản ánh các vấn đề bất cập trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án, chính sách tại cơ quan, đơn vị, địa bàn dân cư.
– Tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng: các cuộc họp dân, tiếp xúc cử tri của đại biểu dân cử tại địa bàn, đóng góp ý kiến xây dựng hệ thống chính trị. Tham dự các buổi tuyên truyền về chính sách, luật pháp để nâng cao kiến thức, nhận thức về pháp luật; chủ động liên hệ với Tổ tư vấn pháp lý, Tổ hòa giải… của địa phương để được trợ giúp về pháp lý khi cần giải quyết các vấn đề khúc mắc của bản thân, gia đình.
– Tích cực nắm bắt, cập nhật thông tin thời sự chính trị của đất nước từ các kênh thông tin chính thống để có bản lĩnh chính trị vững vàng; không nghe theo sự xúi giục, kích động của các thế lực thù địch; góp phần xây dựng hệ thống chính quyền cơ sở vững mạnh. Chủ động phát hiện và phản ánh các vấn đề tiêu cực trong cộng đồng đến chính quyền địa phương, tổ chức Hội Phụ nữ cơ sở; mạnh dạn lên án, tố giác các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trẻ em và người dân trong cộng đồng.
– Chủ động nắm vững các nội dung liên quan đến quyền và lợi ích của hội viên, phụ nữ khi tham gia tổ chức Hội cũng như khi tham gia các hoạt động do Hội Phụ nữ cơ sở tổ chức.
– Chủ động, tích cực tham gia sinh hoạt tổ chức Hội tại các tổ/chi hội/nhóm/câu lạc bộ phụ nữ trên địa bàn; tham gia sinh hoạt trực tiếp hoặc qua các ứng dụng trên mạng xã hội để có cơ hội nắm bắt thông tin, cập nhật kiến thức bổ ích liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ và trẻ em.
– Chủ động, mạnh dạn tham gia và khuyến khích hội viên, phụ nữ tại địa phương có đủ phẩm chất, năng lực tại địa phương tham gia các vai trò, vị trí lãnh đạo các tổ/nhóm/câu lạc bộ phụ nữ…
– Lựa chọn môn thể thao thích hợp để rèn luyện sức khỏe, tham gia phong trào dân vũ tại địa phương; vận động các thành viên trong gia đình tham gia các môn thể thao rèn luyện sức khỏe, xây dựng chế độ ăn uống hợp lí đảm bảo dinh dưỡng cho mọi thành viên trong gia đình, góp phần nâng cao thể lực, trí tuệ, tầm vóc người Việt Nam; chủ động tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho bản thân và gia đình.
– Giữ gìn và phát huy đạo lý nhân ái, thủy chung, nghĩa tình; nghiêm túc thực hiện quy định chế độ hôn nhân; thực hiện nếp sống văn minh, phát huy tinh thần “tương thân, tương ái” giúp đỡ các gia đình chính sách, phụ nữ có hoàn ảnh khó khăn trong cộng đồng; quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, hỗ trợ các thành viên trong gia đình, biết bảo vệ, phòng tránh cho con em trước những cám dỗ của tệ nạn xã hội, tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh tế – xã hội; kịp thời phát hiện các biểu hiện bất thường để ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật,
– Phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế tập thể, tiếp cận kinh tế số và chủ động tham gia các nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương, đất nước, sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị; tích cực tham gia các Tổ hợp tác/Hợp tác xã/mô hình sản xuất tại địa phương góp phần thực hiện chương trình quốc gia “Mỗi xã một sản phẩm”; mạnh dạn đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh để tạo các sản phẩm chất lượng, uy tín; phát huy nội lực, hỗ trợ giúp nhau giảm nghèo bền vững.
– Tổ chức sản xuất, chế biến ngay tại các địa bàn nông thôn, tạo điều kiện thu hút lao động nữ, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần xây dựng Nông thôn mới; chủ động cập nhật thông tin, kiến thức, kỹ năng và xây dựng các mô hình sinh kế thích ứng với những thay đổi bất thường của khí hậu gây ra.
– Tích cực thực hiện hành động bảo vệ môi trường thông qua việc chủ động phân loại rác tại nguồn, xử lý rác thải hữu cơ, thu gom rác đúng nơi quy định, hạn chế sử dụng sản phẩm từ nhựa; tham gia phòng chống thiên tai, dịch bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu; tích cực trồng cây, gây rừng; bảo vệ động thực vật quí hiếm..; tuyên truyền đến người thân, giáo dục con cái cùng tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường.
– Tích cực tham gia các hoạt động gìn giữ, bảo vệ đường biên, cột mốc trên đất liền và trên biển; tham gia các phong trào ủng hộ xây dựng biển, đảo quê hương.
– Tích cực xây dựng hình ảnh đẹp về người phụ nữ Việt Nam đối với bạn bè quốc tế khi tham gia các hoạt động dịch vụ du lịch trong và ngoài địa phương; đồng thời quảng bá về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam giàu bản sắc truyền thống.
– Tích cực phát hiện, giới thiệu các gương điển hình phụ nữ tiên tiến đề cử khen thưởng, tham gia các giải thưởng để biểu dương, khích lệ phụ nữ tích cực lao động sản xuất, đổi mới, sáng tạo để cống hiến nhiều hơn nữa trong công cuộc xây dựng đất nước.
Nguồn: http://hoilhpn.org.vn/