ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng tỉnh Kon Tum (16/3/1975 – 16/3/2025) và 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025)
(theo Công văn số 09-CV/BTGDVTU, ngày 06-3-2025 của Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy)
—-
I. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH
Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, việc ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực được thi hành trong vòng 300 ngày, sau hai năm sẽ thực hiện tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Tuy nhiên, ngay từ những ngày đầu tiên, đế quốc Mỹ, thực dân Pháp và chính quyền Ngô Đình Diệm tìm mọi cách phá hoại việc thi hành Hiệp định, cố tình khiêu khích, trì hoãn việc ngừng bắn trên các chiến trường; dụ dỗ và cưỡng ép gần 1 triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam; tháo dỡ, mang đi hoặc phá hoại máy móc, dụng cụ, tài sản công cộng nhằm làm tê liệt, gây khó khăn cho ta trong việc tiếp quản vùng giải phóng ở miền Bắc. Thông qua chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, Mỹ tập trung thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng” đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 biến miền Nam thành nhà tù, trại giam, trại tập trung, cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Ở Kon Tum, để dễ bề cai trị, chúng trả lương cho chủ làng, dân vệ để phản động hoá bộ máy nguỵ quyền ở cơ sở, mua chuộc, dụ dỗ bằng vật chất để gây ảnh hưởng kiểm soát tới tận người dân trong làng; tổ chức nên các đoàn thể nhằm tập hợp các thành phần dân chúng ở cơ sở và đội dân vệ có vũ trang để hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức trên. Chúng lập nên các đồn bốt, các căn cứ quân sự để thực hiện việc càn quét, đánh phá, truy lùng cán bộ, uy hiếp nhân dân. Trước âm mưu trắng trợn, xảo quyệt của địch, cùng lúc với việc chuyển quân đi tập kết, thực hiện chủ trương chiến lược của Trung ương Đảng, tỉnh Kon Tum kịp thời bố trí một số cán bộ, đảng viên cốt cán ở lại bám trụ địa bàn.
Ngay trong tháng 8 – 1954, Liên khu uỷ V chỉ định Ban cán sự Đảng tỉnh gồm 6 đồng chí. Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là tổ chức chỉ đạo, xúc tiến khẩn trương việc thực hiện chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với tình hình mới, phương pháp đấu tranh chống địch: kết hợp hợp pháp, nửa hợp pháp rồi không hợp pháp, lấy hợp pháp rồi nửa hợp pháp làm chính. Trong thời kỳ chuyển hướng đấu tranh, các cấp, cán bộ, đảng viên đã tích cực bám sát cơ sở, tuyên truyền giáo dục quần chúng, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địch. Được sự lãnh đạo, hướng dẫn của của các cấp, Nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống việc dồn dân, bắt lính, đòi hiệp thương tổng tuyển cử; chống lại chính sách cai trị của địch.
Thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, các tổ chức vũ trang của tỉnh và các huyện được thành lập. Ngày 01/10/1959, tỉnh thành lập đơn vị vũ trang gồm 64 đồng chí tại làng Nước Chè (nay thuộc địa bàn xã Ngọc Tem, huyện Kon Plông). Các huyện (khu) đều xây dựng từ 1 đến 2 trung đội. Từ đây lực lượng vũ trang luôn đi kèm với đấu tranh chính trị, tạo thêm luồng sinh khí mới trong phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân dân.
Tháng 3/1960, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ nhất được tổ chức tại làng Mô Gia (nay thuộc xã Ngọc Lây, huyện Tu Mơ Rông). Dưới ánh sáng của Nghị Quyết 15 Trung ương Đảng, Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ nhất Đảng bộ tỉnh Kon Tum đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Kon Tum nỗ lực cao độ để chuyển tình hình cách mạng Kon Tum lên một bước mới, phối hợp chung với chiến trường Tây Nguyên và toàn miền đồng khởi, nổi dậy, tiến công địch, diệt ác, phá kèm, mở rộng quyền làm chủ, xây dựng căn cứ địa cách mạng vững chắc. Tiêu biểu là chiến thắng của Nhân dân làng Tà Pók (ngày 07/9/1960), đỉnh cao của phong trào quần chúng nổi dậy và chuyển lên thế đấu tranh vũ trang tấn công tiêu diệt địch. Đó cũng là cuộc mở đầu cho phong trào đồng khởi và nổi dậy của tỉnh Kon Tum.
Trên cơ sở phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng nổi lên mạnh mẽ, để tập hợp đông đảo Nhân dân trong một mặt trận đoàn kết chặt chẽ hơn dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày 03/01/1961, Đại hội đoàn kết các dân tộc toàn tỉnh khai mạc tại làng Đăk Pét, xã Đăk Rơ Manh thuộc H29 (nay thuộc xã Ngọc Tem, huyện Kon Plông) thành lập Uỷ ban phong trào tự trị tỉnh Kon Tum. Đây là thắng lợi có ý nghĩa to lớn, thể hiện tinh thần đoàn kết của Nhân dân các dân tộc tỉnh nhà trước âm mưu chia rẽ của địch.
Năm 1961, nhận thấy đã thất bại trong chính sách “viện trợ” và “cố vấn” với chiến lược “tố Cộng”, “diệt Cộng”, đế quốc Mỹ bắt đầu chuyển hướng sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Trong đó, “ấp chiến lược’ được Mỹ – Diệm coi là xương sống của chiến lược chiến tranh đặc biệt, nhằm bình định toàn bộ vùng nông thôn, tấn công tiêu diệt các căn cứ cách mạng và lực lượng vũ trang của ta ở miền núi.
Trước âm mưu và thủ đoạn của địch, trên tinh thần Chỉ thị của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo trực tiếp của Khu uỷ, Tỉnh uỷ Kon Tum chủ trương củng cố xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể cách mạng và quần chúng ở các cấp; tăng cường bố phòng chặt chẽ và chuẩn bị các điều kiện để đánh địch phản kích; xây dựng bộ đội tỉnh, huyện và du kích tự vệ vững mạnh; đẩy mạnh sản xuất, dự trữ lương thực, phát triển các lò rèn đúc vũ khí và công cụ sản xuất. Bằng sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng chủ lực và các lực lượng vũ trang của tỉnh, ta đã đánh bại hàng loạt cuộc càn quét, dồn dân lập ấp của địch, bảo vệ căn cứ cách mạng. Tính đến giữa năm 1965, ta đã giải phóng hoàn toàn quận lỵ Tu Mơ Rông, phần lớn quận lỵ Đăk Tô, Đăk Sút, phá banh trên 100 ấp chiến lược, giành gần 10.000 dân.
Tháng 10/1965, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II tổ chức tại làng Đăk Viên, xã Tê Xăng, H80 (nay là xã Tê Xăng, huyện Tu Mơ Rông) đã xác định chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ đánh bại “Chiến tranh cục bộ” với mức cao nhất. Đầu năm 1966, Hội nghị đại biểu các dân tộc toàn tỉnh của Uỷ ban dân tộc tự trị tỉnh Kon Tum một lần nữa khẳng định quyết tâm của Nhân dân các dân tộc tỉnh nhà “đánh đuổi đế quốc Mỹ để khỏi bị diệt vong !”.
Phát huy truyền thống đoàn kết chiến đấu, quân và dân tỉnh nhà đã phối hợp với lực lượng chủ lực của Mặt trận Tây Nguyên (B3) bẻ gãy nhiều cuộc hành quân càn quét trong mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của địch vào các căn cứ quan trọng, làm thất bại âm mưu phản công chiến lược của chúng. Đặc biệt, trong mùa khô 1966-1967 ta giành thắng lợi lớn trong chiến dịch Đông – Tây Sa Thầy I và chiến dịch Sa Thầy II, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 10.000 tên địch. Sau những tổn thất trên, địch có phần co cụm và gấp rút điều chỉnh lại lực lượng trên địa bàn. Tiếp tục trong mùa đông năm 1967 ta mở chiến dịch Đăk Tô nhằm lôi quân chủ lực của địch ra để tiêu diệt, đồng thời đánh sâu vào vùng thị xã, thị trấn, vùng phụ cận và đường giao thông. Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu 5.000 tên địch, bắn rơi và phá hủy 35 máy bay và 127 xe quân sự.
Với những thắng lợi quan trọng đã đạt được trên chiến trường miền Nam trong hai mùa khô, Bộ Chính trị quyết định mở một cuộc tiến công lớn trên toàn chiến trường trong mùa xuân 1968 “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới- thời kỳ giành thắng lợi quyết định”. Tại Kon Tum, quân và dân trong tỉnh đã hăng hái chuẩn bị mọi điều kiện cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Đúng theo kế hoạch đã định, đêm 29 rạng sáng ngày 30/01/1968 (sáng mùng 1 tết Mậu Thân) cùng toàn miền Nam, quân và dân tỉnh Kon Tum đã nổ súng mở màn chiến dịch, đồng loạt tấn công các mục tiêu quan trọng của địch tại 2 vùng trọng điểm là thị xã Kon Tum và Đăk Tô-Tân Cảnh. Sau 3 đợt tổng công kích, tổng khởi nghĩa, ta tiêu diệt 3.400 tên địch, phá hỏng 110 xe quân sự, 35 máy bay và một số phương tiện chiến tranh khác.
Để tiếp tục lãnh đạo phong trào, đưa cách mạng tiến lên, từ ngày 08 đến 15/11/1968, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III họp tại xã Đoàn, H30 (nay thuộc xã Ngọc Linh, huyện Đăk Glei). Trên cơ sở nhận định tình hình, đánh giá ưu khuyết điểm và nguyên nhân tồn tại, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh trong thời gian tới là: “Tăng cường đoàn kết nhất trí nội bộ, nâng cao nhiệt tình cách mạng, phát huy khí thế tiến công, động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. Phát huy thắng lợi vừa qua, khẩn trương tăng cường thực lực chính trị, vũ trang, kinh tế (cơ sở vật chất), thực hiện tốt chính sách, tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa đánh bại mọi âm mưu của địch, góp phần giành thắng lợi quyết định ở miền Nam…”.
Sau chiến dịch Tết Mậu Thân của ta, Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh, thay thế chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bằng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Tại Kon Tum, địch tiếp tục thực hiện âm mưu “quét và giữ”, tập trung đẩy mạnh “bình định cấp tốc” và từng bước phi Mỹ hóa chiến tranh. Đông-Xuân năm 1968-1969, địch quyết tâm thực hiện chương trình bình định cấp tốc. Sau khi tập hợp lực lượng, địch cùng lúc bắn phá ta trên khắp các vùng chiến lược nhằm bình định lấn chiếm, giành và giữ dân.
Đầu năm 1969, quân và dân đã đồng loạt tấn công vào các cứ điểm lớn của địch tại thị xã Kon Tum, Măng Đen, Măng Buk, Đăk Tô – Tân Cảnh và Đăk Pét; tháng 3/1969, tấn công các vị trí đóng quân của địch ở Kroong (tây Thị xã Kon Tum) làm thiệt hai 22 đại đội, phá huỷ 80 máy bay các loại, 50 xe quân sự và một số phương tiện chiến tranh khác, thiêu cháy 12 kho xăng. Sau đợt hoạt động đánh đòn phủ đầu vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của địch trong năm 1969, các đợt xuân-hè và thu-đông 1970, 1971, ta liên tục tấn công địch, tiếp tục xây dựng, củng cố và bảo vệ vùng giải phóng. Kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch cơ bản bị ta đánh bại.
Từ ngày 26/10 đến 01/11/1971, tại làng Kô Xia, xã Ngọc Lây, huyện H80 (xã Ngọc Lây nay thuộc huyện Tu Mơ Rông) đã diễn ra Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ IV. Trên cơ sở tổng kết những thành tựu nổi bật của phong trào cách mạng địa phương từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III (tháng 11/1968), Đại hội đã đề ra nhiệm vụ chung của tỉnh Đảng bộ và quân và dân ta “Đoàn kết và động viên toàn Đảng bộ, quân, dân trên cơ sở đánh lâu dài, làm chuyển biến nhảy vọt về tư tưởng; quán triệt tư tưởng tấn công; nỗ lực phát huy thắng lợi, kiên quyết khắc phục nhược điểm, khó khăn, tự lực cánh sinh cao độ, nhanh chóng tăng cường thực lực cách mạng về mọi mặt, nhất là thực lực chính trị, vũ trang ở cơ sở; giữ vững bàn đạp, tranh thủ thời gian, tạo thời cơ trực tiếp, chớp thời cơ lớn, phát triển thế tấn công mới trên khắp ba vùng chiến lược bằng ba mũi giáp công; phát động ba cao trào quyết thắng giặc Mỹ xâm lược là: cao trào diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy (nhất là nghĩa quân phòng vệ dân sự), cao trào nổi dậy ở nông thôn, cao trào cách mạng ở thành thị; đánh bại kế hoạch “bình định” của địch; giữ dân, giành quyền làm chủ và giải phóng từng vùng rộng lớn, nhanh chóng làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho ta, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ; đồng thời, ra sức xây dựng căn cứ vững chắc, đẩy mạnh phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm, mở rộng giao lưu, bảo đảm hậu cần, không ngừng xây dựng Đảng bộ vững mạnh, đặc biệt thực hiện thắng lợi cuộc vận động lớn; nâng cao chất lượng đảng viên, phát triển đảng viên mới, bồi dưỡng đào tạo hàng nghìn cán bộ, quyết giành thắng lợi vượt bậc, liên tục giữ vững và phát triển phong trào tiến lên, chủ động trong mọi tình huống”[1].
Xuân hè năm 1972, quán triệt Nghị quyết 20 của Trung ương Đảng, nhằm đánh bại chính sách “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, đánh bại “Học thuyết Ních Xơn”, tạo ra một bước chuyển mới trên chiến trường, đẩy mạnh tiến công địch hơn nữa nhằm tạo ra một chuyển biến căn bản làm thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, Quân uỷ Trung ương chủ trương mở chiến dịch Xuân – Hè 1972, tấn công chiến lược trên toàn miền Nam. Bộ Tổng Tư lệnh xác định Tây Nguyên là hướng tiến công của bộ đội chủ lực trong cuộc tiến công chiến lược Xuân – Hè 1972. Kon Tum – Đăk Tô – Tân Cảnh được xác định là mũi trọng yếu, then chốt của chiến dịch với nhiệm vụ: “Tiêu diệt địch giải phóng vùng Đăk Tô – Tân Cảnh, có điều kiện thì giải phóng thị xã Kon Tum. Hướng phát triển có thể là hướng Plây Cu….“
Thực hiện chủ trương trên, ngày 02/02/1972, ta mở màn Chiến dịch tấn công và nổi dậy Xuân – Hè 1972 trên chiến trường Kon Tum. Sau hơn 2,5 tháng chủ động tấn công, bao vây, chia cắt, đến ngày 18/4/1972, với việc thực hiện chia cắt đường 14 ở cả 2 đầu, cô lập thị xã Kon Tum và chia cắt Kon Tum với Đăk Tô – Tân Cảnh, thì toàn bộ các cứ điểm, điểm cao quanh Đăk Tô – Tân Cảnh của địch bị ta tiêu diệt. Căn cứ Đăk Tô – Tân Cảnh đã bị cô lập hoàn toàn. Căn cứ Đăk Tô – Tân cảnh (còn gọi căn cứ E42- căn cứ Trung đoàn 42 ngụy) chỉ còn có sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 22 nguỵ. Bộ Tư lệnh Mặt trận quyết định tiêu diệt căn cứ Đắk Tô – Tân Cảnh, tập đoàn phòng ngự mạnh nhất của địch tại Bắc Tây Nguyên.
Sau 2 ngày đêm bắn phá dữ dội căn cứ Đăk Tô – Tân Cảnh, đêm 23 rạng ngày 24/4/1972, xe tăng ta vòng qua các tiền đồn phía đông, tấn công đánh chiếm quận lỵ Tân Cảnh, mở cửa hướng đông vào căn cứ. Đúng 5h sáng ngày 24/4/1972, sau những trận pháo kích cấp tập cuối cùng, được lệnh của Chỉ huy Mặt trận, Trung đoàn 66, Tiểu đoàn 37 đặc công được sự yểm trợ của 9 xe tăng – Lữ đoàn 273, cùng các đơn vị bộ đội tỉnh đã tấn công tiêu diệt căn cứ E42 Đăk Tô – Tân Cảnh. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, ta và địch giành nhau từng lô cốt, hầm ngầm, từng dãy công sự…; cũng vào thời gian này, khi thấy khả năng tiêu diệt căn cứ E42 đã rõ ràng, Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương nhanh chóng táo bạo tiếp tục tấn công tiêu diệt căn cứ Đắk Tô 2 (căn cứ Trung đoàn 47 nguỵ và Sân bay Phượng Hoàng), cách căn cứ E42 khoảng 8 Km về hướng Tây.
Trung đoàn 1 (Sư đoàn 2-Quân khu 5) được tăng cường thêm Tiểu đoàn 10, cùng 4 xe tăng T54 và 1 pháo cao xạ tự hành 57 ly được lệnh tiến đánh sào huyệt Trung đoàn 47 ở căn cứ Đăk Tô 2. Với tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường của bộ đội ta, cho đến 11h trưa ngày 24/4/1972, ta đã hoàn toàn làm chủ trận địa; đồng thời với việc tiêu diệt căn cứ E 42, đã giải phóng trên 25 ngàn dân với một vùng đất đai rộng lớn. Chiến thắng Đăk Tô – Tân Cảnh còn làm xoay chuyển tình thế trên chiến trường, đảo lộn hệ thống phòng ngự của địch tại Bắc Tây Nguyên. Sau thất bại ở Đăk Tô – Tân Cảnh, địch chỉ còn co cụm ở thị xã Kon Tum và một số cứ điểm lẻ Măng Đen, Măng Bút, Đăk Pét.
Quán triệt Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Khu ủy V, tháng 11/1973, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ V được tổ chức ở vùng giải phóng làng Đăk RLập, xã Đăk Pxy, H16 (nay thuộc xã Đăk Long, huyện Đăk Hà) đã xác định nhiệm vụ chung của toàn Đảng bộ “Kiên quyết đánh bại mọi âm mưu lấn chiếm, lôi kéo dân của địch, giữ vững và mở rộng vùng ta, khẩn trương nỗ lực xây dựng, phát triển lực lượng của ta vững mạnh về quân sự, chính trị, kinh tế (cả vùng ta và vùng địch còn tạm thời kiểm soát), chủ động giành thắng lợi trong mọi tình huống, chuyển lên thế tiến công tiêu diệt địch khi thời cơ đến”. Phát huy thắng lợi đã đạt được, trong năm 1974, ta lần lượt tấn công và tiêu diệt các cứ điểm Đăk Pét (15/5), Măng Buk (20/8) và Măng Đen (12/10), địch chỉ còn hang ổ cuối cùng tại Thị xã Kon Tum. Trong quá trình tấn công địch, lực lượng ta ở phía trước còn tích cực phát triển cơ sở vào vùng địch, đẩy mạnh đấu tranh chính trị và binh địch vận, chú trọng đến phát triển kinh tế, chăm lo đời sống mọi mặt cho nhân dân, xây dựng vùng căn cứ vững chắc.
Trên chiến trường cả nước, thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và chiến công thần kì của quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng cuối năm 1972 đã buộc Chính phủ Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari vào ngày 27/01/1973, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Theo Hiệp định này, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, rút toàn bộ quân Mỹ về nước. Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân đội Việt Nam cộng hoà giữ nguyên lực lượng và vị trí đóng quân trên các địa bàn hiện tại. Tuy nhiên, sau khi rút quân, Mỹ vẫn tiếp tục cài cắm lực lượng ở lại và tiếp tục chi viện về tài chính để chính quyền tay sai thực thi chính sách “tràn ngập lãnh thổ” ở miền Nam Việt Nam.
Cuối năm 1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp phân tích tình hình địch, ta trên chiến trường và hạ quyết tâm nếu thời cơ đến thì nhanh chóng chớp lấy để giải phóng miền Nam. Thực hiện chủ trương của trên, Đảng bộ và quân dân tỉnh nhà với nỗ lực cao nhất, ra sức chuẩn bị mọi mặt phối hợp cùng bộ đội chủ lực, vừa đánh địch giữ thế chiến lược, vừa tích cực góp sức cùng Mặt trận Tây Nguyên giành thắng lợi quyết định.
Ngày 04/3/1975, chiến dịch Tây Nguyên mở màn. Cùng thời gian tấn công địch khắp mặt trận Tây Nguyên, tại Kon Tum hoả lực của Tỉnh đội và lực lượng chủ lực đánh chiếm các khu quân sự và khu kho trong thị xã của địch, khống chế sân bay, khu cảnh sát dã chiến, trạm tiếp điện ChưH,reng. Lực lượng của ta nhanh chóng tấn công các chốt điểm xung quanh Thị xã, các ấp và các khu dồn trong vùng. Sau khi nghe tin Buôn Mê Thuột thất thủ, ngày 15/3/1975 địch ở Kon Tum bắt đầu rút chạy.
Trưa ngày 16/3/1975, các lực lượng của tỉnh từ các hướng đã áp sát vào thị xã Kon Tum, tiếp quản một số vùng phụ cận; cũng trong ngày 16/3/1975 ta đánh chiếm quận lỵ Đăk Tô lưu vong (đóng tại đèo Sao Mai) vây ép địch ở phía Bắc và phía Đông. Đêm 16/3/1975, tất cả các lực lượng vũ trang và chính trị trong tỉnh đã đột nhập và chiếm lĩnh Toà Hành chính và làm chủ các khu vực quân sự và chính trị trọng yếu, tiêu diệt tất cả các ổ đề kháng cuối cùng của địch, nhanh chóng triển khai chiếm toàn bộ Thị xã Kon Tum.
Sau khi hoàn thành chuẩn bị chiến lược cả về thế và lực, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 được tiến hành từ ngày 4/3/1975 với các chiến dịch: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá chiến lược đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; hai chiến dịch giải phóng Huế – Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn – Gia Định với nhiều bước phát triển nhảy vọt. Trong khi đó, địch bị mất toàn bộ Quân khu 1, Quân khu 2, một nửa sinh lực của Quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt, rơi vào tình thế đi đến tan rã hầu như không cứu vãn nổi. Chúng ra sức tổ chức lực lượng, tích cực phòng ngự, lấy việc bảo vệ Sài Gòn làm mục đích chiến lược để có thể làm điều kiện mặc cả đối với ta. Sau khi lần lượt tổ chức các tập đoàn phòng ngự từ xa nhưng đều bị ta đập tan; quân đội ngụy Sài Gòn tập trung xây dựng tuyến phòng thủ cuối cùng là Sài Gòn – Gia Định.
Ngày 14/4/1975, theo đề nghị của Đảng ủy – Bộ Tư lệnh chiến dịch và Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị đồng ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Các lực lượng chiến lược của ta tham gia chiến dịch lịch sử gồm 4 quân đoàn (1,2,3,4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn), các đơn vị binh chủng tăng – thiết giáp, đặc công, công binh, thông tin, pháo binh, không quân, hải quân với đầy đủ binh khí kỹ thuật cùng các đơn vị biệt động, bộ đội địa phương, dân quân du kích chuẩn bị tiến về giải phóng Sài Gòn – Gia Định.
17 giờ ngày 26/4/1975, quân ta được lệnh tổng công kích; 5 cánh quân đồng loạt tiến công trên 5 hướng: Hướng Bắc – Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng); hướng Tây Bắc – Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên); hướng Đông Nam – Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang); hướng Đông – Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long); hướng Tây và Tây Nam – Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Quân khu 8), nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch. Trước cuộc tiến công như vũ bão của quân và dân ta, 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, quân ta đánh chiếm Dinh Độc Lập, chính quyền ngụy Sài Gòn đầu hàng không điều kiện, cờ giải phóng phấp phới tung bay trên nóc tòa nhà chính của Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Từ ngày 30/4 đến đầu tháng 5/1975, bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang tiến công, kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng nhân dân đã giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, vùng biển, giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo ở vùng biển Tây Nam Tổ quốc.
II. Ý NGHĨA LỊCH SỬ, NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Ý nghĩa lịch sử
Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc. Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc – kỷ nguyên của độc lập, thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây cũng là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên, khích lệ các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
2.Nguyên nhân thắng lợi
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu:
Một là, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu với đường lối chính trị, quân sự, độc lập, tự chủ đúng đắn, sáng tạo, phương pháp đấu tranh linh hoạt, phù hợp với mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến.
Hai là, tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng của quân và dân cả nước, đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, lập nên những chiến công oanh liệt, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Ba là, sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất ý chí và hành động; của lòng yêu nước nồng nàn – khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước của đồng bào ta.
Bốn là, lòng trung thành tuyệt đối và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của các Lực lượng vũ trang nhân dân với sự chỉ huy thao lực của các vị Tướng lĩnh tài ba.
Năm là, tình hữu nghị và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, hiệu quả của bạn bè quốc tế, của liên minh chiến đấu giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, sự ủng hộ của nhân dân và các lực lượng yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới.
3.Bài học kinh nghiệm
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng giúp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đúc kết những bài học kinh nghiệm quý báu, đó là: (1) Kiên định quyết tâm, quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược; (2) Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ; (3) Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo; (4) Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc; (5) Căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc; (6) Đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia; (7) Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại; (8) Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
III. THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN SAU 50 NĂM ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT
Sau khi đất nước thống nhất, nước ta phải đối mặt với những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh để lại; đời sống Nhân dân hết sức khó khăn, thiếu lương thực triền miên, khoảng ¾ dân số sống ở mức nghèo khổ. Cuối năm 1975, Kon Tum và Gia Lai sáp nhập lại thành tỉnh Gia Lai-Kon Tum, bên cạnh việc cứu đói, ổn định đời sống nhân dân, Đảng bộ Gia Lai-Kon Tum đã đặc biệt chú trọng công tác định canh, định cư khai hoang, đẩy mạnh sản xuất, mở rộng diện tích lúa nước hai vụ. Xuất phát từ yêu cầu phát triển chung của đất nước trong thời kỳ đổi mới, xu thế và điều kiện phát triển của khu vực Tây Nguyên, ngày 12-8-1991, kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII đã ra Nghị quyết giải thể tỉnh Gia Lai-Kon Tum và thành lập lại 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum.
Phát huy tinh thần yêu nước, tự lực tự cường cùng ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nắm bắt thuận lợi, thời cơ; sau 50 năm giải phóng tỉnh Kon Tum và 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo nhiều dấu ấn nổi bật:
– Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, bảo đảm vai trò quản lý hiệu quả của Nhà nước, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo tiếp tục được hoàn thiện; có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân.
– Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Đối với tỉnh Kon Tum, năm 2024, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước khoảng 20.255 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng đạt 8,02%, đứng thứ 24 cả nước và thứ nhất Khu vực Tây Nguyên; GRDP bình quân đầu người khoảng 68,15 triệu đồng; tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước khoảng 30.000 tỷ đồng. Tổng giá trị tăng thêm của ngành Nông nghiệp là 8.443 tỷ đồng, các loại cây trồng chủ lực của tỉnh tiếp tục được chú trọng phát triển; tổng giá trị tăng thêm của ngành Công nghiệp, xây dựng 13.842 tỷ đồng; tổng giá trị tăng thêm của ngành Thương mại – Dịch vụ 15.574 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện cả năm là 406 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu ước thực hiện cả năm là 8 triệu USD. Ngành du lịch của tỉnh tiếp tục khởi sắc với nhiều chương trình, hoạt động du lịch, văn hóa, nghệ thuật đặc sắc thu hút được khoảng 2.300.000 lượt khách, tổng doanh thu đạt khoảng 690 tỷ đồng. Công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh được chỉ đạo triển khai quyết liệt, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, minh bạch, bình đẳng.
– Hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao chuyển biến tích cực. Các thiết chế văn hóa được đầu tư xây dựng, nhất là cấp xã. Nhiều giá trị văn hóa của các dân tộc được khôi phục, bảo tồn và phát huy; cơ sở hạ tầng, thiết chế thể thao được đầu tư; phong trào thể dục thể thao quần chúng được đông đảo Nhân dân hưởng ứng, tham gia; thể thao thành tích cao có bước phát triển. Chất lượng giáo dục-đào tạo chuyển biến tích cực, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông năm 2024 đạt kết quả cao với tỷ lệ tốt nghiệp đạt 99,3%, xếp vị thứ 2 trong khu vực Tây Nguyên. Chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe Nhân dân được nâng lên; đến nay, 100% trạm y tế có bác sỹ; 99% xã trên toàn tỉnh đã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã. Các chế độ, chính sách bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được quan tâm, thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng. Công tác giảm nghèo tiếp tục được quan tâm, tỷ lệ hộ nghèo năm 2024 giảm 2,51% so với năm 2023. Công tác giải quyết đất ở, đất sản xuất cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được chú trọng, tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số có đất ở ước khoảng 99,33%; tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số có đất sản xuất 99,39%. Chương trình chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh được triển khai đồng bộ, mạnh mẽ, đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp; hạ tầng viễn thông phát triển đồng bộ, đáp ứng nhu cầu của người dân.
– Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và lợi ích quốc gia – dân tộc tiếp tục được bảo vệ vững chắc; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng – an ninh; tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường trên nhiều mặt. Xây dựng thế trận lòng dân gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được xây dựng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, là lực lượng nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Hình thành thế trận an ninh nhân dân, bố trí chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng công an cấp xã, lực lượng tham gia bảo vệ trật tự, an ninh, đưa công an nhân dân gần dân, sát dân để phục vụ. Có đối sách, giải pháp phù hợp, xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống, không để xảy ra bị động, bất ngờ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
– Hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, đạt nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa chiến lược và lâu dài, tạo cục diện đối ngoại mới, rộng mở, thuận lợi cho an ninh và phát triển, nâng cao vị thế đất nước, thể hiện vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Nâng cấp, nâng tầm quan hệ với các đối tác chủ chốt, các nước lớn; đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách quốc tế; đề xuất nhiều sáng kiến, giải pháp tại các cơ chế hợp tác đa phương quan trọng. Ngoại giao kinh tế được đẩy mạnh, khai thác hiệu quả các cơ hội hợp tác kinh tế. Mở rộng, làm sâu sắc thêm quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 9 nước đối tác chiến lược toàn diện, 19 nước đối tác chiến lược (bao gồm cả 9 nước đối tác chiến lược toàn diện) và 13 nước đối tác toàn diện, trong đó đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; mở rộng quan hệ kinh tế – thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là bạn, là đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất, chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, tổ chức Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác.
Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng tỉnh Kon Tum và 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là dịp chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu xây dựng và phát triển đất nước, của tỉnh; đồng thời nhận thức sâu sắc hơn giá trị, những bài học kinh nghiệm được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc để tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, biến những thành tựu vẻ vang trong quá khứ thành động lực để hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình, phát triển phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam.
BAN TUYÊN GIÁO VÀ DÂN VẬN TỈNH ỦY
[1]. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ IV – Văn kiện Đại hội.