Nhận lời mời của lãnh đạo Việt Nam, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình tiến hành thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam và tham dự Hội nghị các Nhà lãnh đạo kinh tế Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 25 từ ngày 10 đến 13-11; Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Donald Trump thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 11 đến 12-11-2017; Tổng thống nước Cộng hòa Chile Michelle Bachelet Jeria thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 8 đến ngày 09-11-2017.
Kết thúc các chuyến thăm, hai bên đã ra Tuyên bố chung. Trân trọng giới thiệu toàn văn Tuyên bố chung giữa Việt Nam với Trung Quốc, Mỹ và Chile.
Chủ tịch nước Trần Đại Quang tiếp Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình
Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đại Quang, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình tiến hành thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam và tham dự Hội nghị các Nhà lãnh đạo kinh tế Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 25 từ ngày 10 đến 13-11.
Hai bên đã ra Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc.
1. Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đại Quang, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình tiến hành thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam và tham dự Hội nghị các Nhà lãnh đạo kinh tế Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 25 từ ngày 10 đến 13-11-2017.
Trong thời gian chuyến thăm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã có các cuộc hội đàm với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trần Đại Quang; đồng thời, hội kiến với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Lãnh đạo hai Đảng, hai nước đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước, đi sâu trao đổi ý kiến về quan hệ song phương và các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm; đạt nhận thức chung quan trọng về việc làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt – Trung trong tình hình mới.
2. Hai bên bày tỏ vui mừng trước những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hai Đảng, hai nước trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình mỗi nước, nhất trí cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời, đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, chế độ chính trị tương đồng, con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung, sự phát triển bền vững của mỗi nước và quan hệ hữu nghị, hợp tác tốt đẹp giữa hai nước có ý nghĩa quan trọng đối với cả hai nước.
Trong điều kiện lịch sử mới, việc kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con đường phát triển xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc của mỗi nước là lựa chọn đúng đắn, phù hợp với lợi ích căn bản của nhân dân hai nước. Hai bên sẽ tham khảo kinh nghiệm lẫn nhau, cùng phát triển, tiếp thêm sức sống mới cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước, không ngừng nỗ lực vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại.
Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc thành công tốt đẹp, đánh giá cao thành quả sáng tạo lý luận quan trọng của Đại hội về xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới, chân thành chúc và tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc do đồng chí Tập Cận Bình là hạt nhân, nhân dân Trung Quốc sẽ tiếp tục thúc đẩy đồng bộ bố cục tổng thể “5 trong 1”, thúc đẩy nhịp nhàng bố cục chiến lược “bốn toàn diện”, tiến tới thực hiện “hai mục tiêu 100 năm”, xây dựng Trung Quốc trở thành quốc gia hiện đại xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa và tươi đẹp.
Trung Quốc đánh giá cao những thành quả quan trọng mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã giành được trên các lĩnh vực tăng cường xây dựng Đảng, thúc đẩy đổi mới toàn diện, cải thiện đời sống nhân dân kể từ Đại hội XII đến nay; chân thành chúc và tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo kiên cường của Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu, nhân dân Việt Nam sẽ thực hiện thắng lợi những mục tiêu do Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, sớm xây dựng Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
3. Hai bên cho rằng, tình hữu nghị Việt – Trung do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các nhà lãnh đạo tiền bối đích thân gây dựng và dày công vun đắp là tài sản chung quý báu của nhân dân hai nước, hai bên cần cùng nhau kế thừa, gìn giữ và phát huy tốt. Hai bên sẽ luôn nhìn nhận và phát triển quan hệ Việt – Trung từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn lâu dài, kiên định thực hiện chính sách hữu nghị đối với nhau. Hai bên sẵn sàng cùng nhau nỗ lực, nắm vững phương hướng lớn phát triển quan hệ Việt – Trung, tăng cường trao đổi chiến lược, gia tăng tin cậy chính trị, làm sâu sắc hợp tác cùng có lợi, xử lý thỏa đáng bất đồng, thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt – Trung tiếp tục phát triển lành mạnh, ổn định, mang lợi ích thiết thực cho hai nước và nhân dân hai nước, góp phần tích cực thúc đẩy hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực.
4. Hai bên cho rằng, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước đặc biệt là lãnh đạo cao nhất duy trì tiếp xúc thường xuyên có vai trò định hướng quan trọng đối với việc phát triển quan hệ song phương; nhất trí thông qua các hình thức linh hoạt, đa dạng như thăm song phương, cử đặc phái viên, đường dây nóng, gặp gỡ thường niên và tại các diễn đàn đa phương để duy trì và tăng cường truyền thống tốt đẹp về giao lưu cấp cao, kịp thời trao đổi ý kiến về các vấn đề lớn và quan trọng trong quan hệ hai Đảng, hai nước và các vấn đề cùng quan tâm.
5. Hai bên cho rằng, hai nước Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng và đối tác hợp tác quan trọng của nhau, đều đang trong giai đoạn then chốt của cải cách phát triển, sự phát triển của nước này là cơ hội của nước kia. Hai bên cần thiết thực phát huy vai trò điều phối tổng thể của các cơ chế giao lưu hợp tác giữa hai Đảng, hai nước như Cuộc gặp Đại diện hai Bộ Chính trị, Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt – Trung; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực sau:
5.1. Tăng cường trao đổi kinh nghiệm về quản lý đất nước, tăng cường giao lưu kênh Đảng, triển khai hiệu quả Kế hoạch hợp tác giữa hai Đảng giai đoạn 2016 – 2020, tổ chức tốt Cuộc gặp Đại diện hai Bộ Chính trị, Hội thảo lý luận hai Đảng, làm sâu sắc giao lưu trao đổi đoàn và hợp tác đào tạo cán bộ kênh Đảng, tiếp tục tăng cường giao lưu hợp tác giữa các cơ quan trung ương hai Đảng và các tổ chức Đảng địa phương, đặc biệt là các tỉnh (khu) giáp biên. Tích cực thúc đẩy giao lưu, hợp tác hữu nghị giữa Quốc hội Việt Nam với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân toàn quốc Trung Quốc.
5.2. Thực hiện tốt Thỏa thuận về tăng cường hợp tác trong tình hình mới giữa hai Bộ Ngoại giao, duy trì tiếp xúc thường xuyên giữa lãnh đạo hai Bộ, tiếp tục tổ chức tốt tham vấn ngoại giao hằng năm, tăng cường giao lưu giữa các cục/vụ tương ứng, thực hiện tốt kế hoạch đào tạo cán bộ, ủng hộ và tạo thuận lợi cho việc cải thiện điều kiện trụ sở và nhà ở của cơ quan đại diện ngoại giao hai bên.
5.3. Tăng cường hợp tác về quốc phòng, an ninh và thực thi pháp luật, thực hiện tốt Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng đến năm 2025, sử dụng hiệu quả đường dây nóng giữa hai Bộ Quốc phòng, tổ chức tốt Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới, Đối thoại chiến lược quốc phòng. Tổ chức tốt các hoạt động mang tính cơ chế như tuần tra liên hợp ở Vịnh Bắc Bộ giữa hải quân, cảnh sát biển hai nước và tàu thuyền thăm lẫn nhau, tăng cường hợp tác đào tạo cán bộ, chia sẻ kinh nghiệm trong các lĩnh vực công tác Đảng, công tác chính trị, y học, gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc giữa hai quân đội. Phát huy tốt vai trò của các cơ chế như Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm, đối thoại an ninh chiến lược; tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực như chống khủng bố, ma túy, tiền giả, lừa đảo qua mạng, quản lý xuất nhập cảnh, quản lý biên giới, an ninh mạng; triển khai giao lưu kinh nghiệm trong các lĩnh vực như bảo vệ an ninh trong nước, phối hợp truy bắt tội phạm bỏ trốn. Thúc đẩy Hiệp định dẫn độ Việt Nam – Trung Quốc sớm có hiệu lực.
5.4. Áp dụng các biện pháp hiệu quả, cùng thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực như kinh tế, thương mại, năng lực sản xuất, đầu tư, cơ sở hạ tầng, tài chính tiền tệ không ngừng đạt tiến triển thực chất.
(i) Việt Nam hoan nghênh và ủng hộ việc triển khai sáng kiến “Vành đai và Con đường” nhằm thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, liên kết kinh tế giữa các nước và kết nối khu vực, đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng của khu vực và thế giới; sẵn sàng cùng Trung Quốc thực hiện tốt văn kiện hợp tác về kết nối “hai hành lang, một vành đai” và “Vành đai và Con đường” đã ký kết, sớm xác định các lĩnh vực ưu tiên, phương hướng trọng điểm và dự án hợp tác cụ thể, phù hợp với lợi ích, khả năng và điều kiện của mỗi nước; thúc đẩy kết nối về chính sách, hạ tầng, thương mại, vốn và con người, tạo điều kiện để nâng cao chất lượng hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.
(ii) Sử dụng hiệu quả cơ chế hợp tác về năng lực sản xuất, tăng cường hơn nữa việc kết nối giữa doanh nghiệp hai nước, thực hiện tốt các dự án hợp tác trọng điểm đã xác định, thúc đẩy hợp tác năng lực sản xuất đạt tiến triển thực chất. Tiếp tục triển khai trao đổi về chính sách đầu tư, nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy hợp tác đầu tư phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của mỗi bên. Trung Quốc khuyến khích các doanh nghiệp tiêu biểu cho công nghệ tiên tiến và trình độ phát triển của Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam.
(iii) Cùng nhau thực hiện tốt “Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai đoạn 2017 – 2021,” ký kết và thực hiện danh mục các dự án hợp tác trọng điểm. Thúc đẩy hoàn thành dự án đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 2 (Cát Linh – Hà Đông) theo kế hoạch. Chỉ đạo doanh nghiệp hai bên nhanh chóng giải quyết các vấn đề tồn tại, vướng mắc của các dự án hợp tác.
(iv) Phát huy vai trò của Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng trên bộ đối với việc tăng cường kết nối giữa hai nước; xây dựng tốt kế hoạch hợp tác trong lĩnh vực giao thông và năng lượng trong khuôn khổ hợp tác cơ sở hạ tầng trên bộ, hoàn thành việc lập quy hoạch xây dựng dự án đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng theo kế hoạch.
(v) Phát huy vai trò của Ủy ban hợp tác kinh tế – thương mại Việt – Trung và các cơ chế hợp tác liên quan, thúc đẩy đi sâu phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư hai nước, thực hiện cùng có lợi cùng thắng giữa hai bên. Thúc đẩy thương mại song phương tiếp tục phát triển cân bằng, ổn định; thực hiện tốt “Bản ghi nhớ hợp tác song phương trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản”.
Trung Quốc sẵn sàng mở rộng nhập khẩu từ Việt Nam, ưu tiên triển khai công tác đánh giá tiêu chuẩn gia nhập thị trường Trung Quốc đối với sữa và sản phẩm từ sữa của Việt Nam; đẩy nhanh tiến độ hoàn tất các thủ tục pháp lý, mở cửa thị trường đối với một số loại hoa quả của Việt Nam; triển khai hợp tác trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, trong đó có gạo, sắn. Trên cơ sở “Bản ghi nhớ về đẩy nhanh tiến độ đàm phán Thỏa thuận khung xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt – Trung” ký kết trong chuyến thăm lần này, tích cực bàn bạc Thỏa thuận khung về xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới, thúc đẩy phát triển khu vực biên giới hai nước, nâng cao mức độ kết nối giữa hai bên. Phía Trung Quốc tuyên bố hoàn thành thủ tục phê duyệt Văn phòng xúc tiến thương mại Việt Nam tại Hàng Châu; sẵn sàng tạo thuận lợi để các Văn phòng xúc tiến thương mại Việt Nam tại Trùng Khánh, Hàng Châu triển khai công việc.
(vi) Sử dụng tốt cơ chế Nhóm công tác hợp tác về tài chính – tiền tệ, tiếp tục trao đổi, nghiên cứu việc sử dụng đồng bản tệ trong thương mại và đầu tư song phương; tăng cường chia sẻ kinh nghiệm về chính sách tiền tệ và ổn định tài chính; tiếp tục ủng hộ các tổ chức tài chính của nhau triển khai các nghiệp vụ liên quan tại nước mình theo pháp luật mỗi bên. Phía Việt Nam tuyên bố chấp thuận nguyên tắc thành lập Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc tại Hà Nội; khuyến khích các tổ chức tài chính của hai bên ủng hộ việc huy động vốn cho các dự án hợp tác đủ điều kiện. Triển khai tốt các khoản tín dụng Trung Quốc cung cấp, tạo điều kiện để sử dụng các nguồn vốn của Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) để triển khai các dự án kết nối cơ sở hạ tầng. Phía Trung Quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi của Trung Quốc và các nguồn vốn khác theo các quy định liên quan.
5.5. Thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực nông nghiệp, nguồn nước, môi trường, khoa học công nghệ, giao thông vận tải. Tăng cường hợp tác nghiên cứu lai tạo các giống lúa thích hợp với điều kiện hạn hán và xâm nhập mặn. Căn cứ theo nhận thức chung hai bên đã đạt được, tích cực thúc đẩy thực hiện đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển, xử lý thỏa đáng vấn đề liên quan phù hợp với quan hệ hữu nghị hai nước. Tích cực triển khai hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và quản lý, bảo vệ, sử dụng bền vững các nguồn nước trong khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương, trong đó có cơ chế hợp tác Mekong – Lan Thương. Tăng cường giao lưu và hợp tác kỹ thuật trong các lĩnh vực phòng chống lũ lụt, thiên tai. Sử dụng tốt cơ chế Hội nghị Ủy ban hỗn hợp hợp tác khoa học công nghệ Việt – Trung, thúc đẩy hiệu quả các dự án nghiên cứu chung, giao lưu các nhà khoa học trẻ, hợp tác chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực. Thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực giám sát an toàn hạt nhân. Tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác kết nối giao thông và cơ sở hạ tầng đường bộ, đường sắt, đường sông, hàng không giữa hai bên.
5.6. Mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực văn hóa, báo chí, y tế, giao lưu nhân dân. Triển khai tốt Kế hoạch thực hiện hàng năm Hiệp định văn hóa Việt – Trung và Bản ghi nhớ hợp tác về công nghiệp văn hóa, vận hành tốt Học viện Khổng Tử tại Đại học Hà Nội, thúc đẩy sớm đưa vào sử dụng Trung tâm Văn hóa Trung Quốc tại Hà Nội và Cung hữu nghị Việt – Trung. Tăng cường giao lưu, hợp tác giữa cơ quan báo chí hai nước, mở rộng mức độ tuyên truyền về tình hữu nghị giữa hai nước. Triển khai tốt Kế hoạch hợp tác y tế Việt – Trung. Trên cơ sở các văn kiện liên quan ký kết trong chuyến thăm lần này, đẩy nhanh nghiên cứu khả thi Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam, sớm triển khai các dự án về giáo dục, y tế tại khu vực phía Bắc Việt Nam do Trung Quốc viện trợ. Tiếp tục tổ chức tốt các hoạt động giao lưu nhân dân như Gặp gỡ Hữu nghị Thanh niên, Liên hoan nhân dân biên giới, Diễn đàn Nhân dân Việt – Trung.
5.7. Tăng cường chỉ đạo và ủng hộ giao lưu hữu nghị, hợp tác cùng có lợi giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh/khu biên giới; phát huy tốt vai trò của các cơ chế hiện có giữa các địa phương, tăng cường hợp tác thực chất về kinh tế, thương mại, du lịch; tích cực nghiên cứu các biện pháp tăng cường quản lý và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho lao động thời vụ tại khu vực biên giới hai nước.
5.8. Phát huy tốt vai trò của cơ chế Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền Việt – Trung, thực hiện nghiêm túc các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc; tăng cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới. Tăng cường hợp tác về cửa khẩu giữa hai nước và cửa khẩu giữa các địa phương, tiếp tục thúc đẩy việc mở và nâng cấp các cặp cửa khẩu biên giới, áp dụng các biện pháp nâng cao mức độ tiện lợi hóa thông quan, trao đổi, bàn bạc về quy phạm hoạt động mở các đường qua lại tại khu vực biên giới, ngăn ngừa và chống các hành vi vi phạm pháp luật như buôn lậu, giữ gìn an ninh, trật tự khu vực biên giới.
6. Hai bên đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhất trí tiếp tục tuân thủ nhận thức chung quan trọng đạt được giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước và “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc;” sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Hai bên nhất trí làm tốt công việc tiếp theo sau khi khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy vững chắc đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này; tiếp tục thúc đẩy công việc của Nhóm công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển; triển khai hiệu quả các dự án hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm đã thỏa thuận. Hai bên đánh giá cao hoạt động thả giống thủy sinh và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong Vịnh Bắc Bộ.
Hai bên nhất trí tiếp tục thực hiện toàn diện, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), trên cơ sở hiệp thương thống nhất, sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
7. Phía Việt Nam khẳng định kiên trì chính sách một nước Trung Quốc; ủng hộ quan hệ hai bờ phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc; kiên quyết phản đối hành động chia rẽ “Đài Loan độc lập” dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất kỳ quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc bày tỏ hoan nghênh lập trường trên của phía Việt Nam.
8. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường phối hợp tại các khuôn khổ đa phương và khu vực như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) – Trung Quốc, hợp tác Mekong – Lan Thương, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực và trên thế giới. Trung Quốc chúc mừng Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị các Nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 25. Việt Nam chúc mừng Trung Quốc tổ chức thành công Diễn đàn cấp cao hợp tác “Vành đai và Con đường”, tin tưởng điều này sẽ mang lại lợi ích chung cho các nước.
9. Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký Thỏa thuận về hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc, Bản ghi nhớ về thúc đẩy kết nối giữa khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai” với sáng kiến “Vành đai và Con đường”, Biên bản ghi nhớ về việc tăng cường hợp tác trong lĩnh vực điện lực và năng lượng tái tạo, Bản ghi nhớ về danh mục dự án hợp tác năng lực sản xuất năm 2017, Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực quản lý pháp quy an toàn hạt nhân, Bản ghi nhớ về việc đẩy nhanh tiến độ đàm phán thỏa thuận khung về xây dựng các khu hợp tác kinh tế qua biên giới, Bản ghi nhớ về việc thành lập nhóm công tác hợp tác thương mại điện tử, Bản ghi nhớ về việc xác định danh mục các dự án hợp tác trọng điểm của Quy hoạch phát triển 5 năm hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 2017 – 2021, Bản ghi nhớ về hợp tác phát triển nguồn nhân lực, Công thư trao đổi về việc nghiên cứu tính khả thi trước khi lập dự án về Dự án viện trợ xây mới cơ sở 2 Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam, Bản ghi nhớ về hợp tác và trao đổi thông tin thanh tra, giám sát ngân hàng, Bản ghi nhớ về hợp tác công nghiệp văn hóa, Kế hoạch hành động về hợp tác y tế, Thỏa thuận hợp tác về trao đổi khoa học giữa Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Thỏa thuận khung hợp tác giữa Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Việt Nam và Cục Sự nghiệp xuất bản – phát hành Ngoại văn Trung Quốc giai đoạn 2017 – 2022, Thỏa thuận giao lưu và hợp tác báo chí giữa Hội nhà báo Việt Nam và Hội nhà báo toàn quốc Trung Quốc, Thỏa thuận về hợp tác đào tạo cán bộ giữa Tỉnh ủy Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Đảng Cộng sản Việt Nam và Khu ủy khu tự trị Dân tộc Choang Quảng Tây, Đảng Cộng sản Trung Quốc và một số thỏa thuận hợp tác giữa doanh nghiệp, tổ chức tài chính.
10. Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Tập Cận Bình đã thành công tốt đẹp, góp phần quan trọng trong việc củng cố tình hữu nghị truyền thống, làm sâu sắc hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc, thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới, mang ý nghĩa dấu mốc quan trọng.
Tổng Bí thư, Chủ tịch Tập Cận Bình chân thành cảm ơn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Trần Đại Quang, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam về sự đón tiếp trọng thị, nhiệt tình và hữu nghị; trân trọng mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trần Đại Quang thăm lại Trung Quốc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trần Đại Quang bày tỏ cảm ơn./.
II- TUYÊN BỐ CHUNG VIỆT NAM – HOA KỲ
Nhận lời mời của Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Donald Trump thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 11 đến 12-11-2017. Kết thúc chuyến thăm, hai bên đã ra Tuyên bố chung.
Nhận lời mời của Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Trần Đại Quang, Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Donald Trump đã thực hiện chuyến thăm cấp Nhà nước tới Hà Nội ngày 11 – 12 tháng 11 năm 2017. Lãnh đạo hai nước thảo luận về những biện pháp để củng cố và mở rộng quan hệ Đối tác Toàn diện giữa hai nước trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau, các lợi ích và mong muốn chung thúc đẩy hòa bình, hợp tác, thịnh vượng và an ninh tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Lãnh đạo hai bên tái khẳng định cam kết làm sâu sắc hơn quan hệ trên cơ sở những Tuyên bố chung trước đây giữa hai nước; tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế; tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau.
Tổng thống Donald Trump chúc mừng Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao APEC tại Đà Nẵng. Lãnh đạo hai nước tái khẳng định ý định duy trì tiếp xúc, trao đổi đoàn ở cấp cao và củng cố các cơ chế đối thoại hiện có, bao gồm đối thoại kênh Đảng. Hai bên nêu bật mối quan hệ kinh tế ngày càng được tăng cường và cùng có lợi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam; nhấn mạnh mong muốn chung tạo công ăn việc làm và tạo dựng những điều kiện thuận lợi cho kinh doanh và buôn bán ở cả hai nước.
Hai nhà lãnh đạo cam kết sẽ làm sâu sắc hơn và mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư song phương thông qua các cơ chế chính thức, bao gồm Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA). Hai bên hoan nghênh việc mở cửa trở lại thị trường Việt Nam cho mặt hàng bột bã ngô của Hoa Kỳ và mở cửa thị trường Hoa Kỳ cho trái vú sữa của Việt Nam. Hai nhà lãnh đạo cam kết tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề còn tồn tại trong lĩnh vực thương mại nông nghiệp, trong đó có cá da trơn, tôm, xoài; cam kết thúc đẩy thương mại, đầu tư tự do và công bằng trong các lĩnh vực ưu tiên, trong đó có dịch vụ thanh toán điện tử, ô tô và việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Lãnh đạo hai nước hoan nghênh việc công bố các thỏa thuận thương mại mới trị giá hơn 12 tỷ USD nhân dịp chuyến thăm của Tổng thống Donald Trump; hoan nghênh quan hệ song phương ngày càng được tăng cường trong lĩnh vực năng lượng, trong đó có những cuộc thảo luận giữa doanh nghiệp hai bên về việc Việt Nam nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng từ Hoa Kỳ, và những bước đi của Việt Nam nhằm nâng cao khả năng sản xuất năng lượng mặt trời với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ.
Hai nhà lãnh đạo khẳng định cam kết chung làm sâu sắc hơn nữa hợp tác quốc phòng và quyết tâm chung đối phó với các thách thức an ninh khu vực. Chủ tịch nước Trần Đại Quang cảm ơn Chính phủ Hoa Kỳ đã chuyển giao một tàu tuần tra bờ biển lớp Hamilton, giúp nâng cao năng lực bảo đảm an ninh hàng hải và thực thi pháp luật của Việt Nam. Hai nhà lãnh đạo hoan nghênh kế hoạch về việc một tàu sân bay Hoa Kỳ lần đầu tiên thăm một cảng của Việt Nam trong năm 2018. Hai bên khẳng định Kế hoạch hành động về Hợp tác quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 2018 – 2020 nhằm thực thi Bản ghi nhớ về Tăng cường hợp tác quốc phòng song phương năm 2011 và Tuyên bố Tầm nhìn chung về Quan hệ quốc phòng năm 2015; qua đó thắt chặt quan hệ quốc phòng song phương trong các lĩnh vực an ninh hàng hải, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa, các hoạt động gìn giữ hòa bình, và khắc phục hậu quả chiến tranh. Trên tinh thần đó, hai nhà lãnh đạo hoan nghênh Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ sớm thăm Việt Nam.
Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh hai nước sẽ làm sâu sắc hơn và từng bước mở rộng hợp tác an ninh – tình báo; tăng cường trao đổi thông tin và huấn luyện chung trong các vấn đề cùng quan tâm. Hai bên tỏ ý định thắt chặt hợp tác về an ninh mạng thông qua việc tăng cường trao đổi đoàn và chia sẻ thông tin, nhằm thúc đẩy một không gian mạng mở và an toàn. Chủ tịch nước Trần Đại Quang bày tỏ sự quan tâm về việc phối hợp chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ trong bảo đảm an toàn, an ninh hàng không và chống khủng bố.
Hai nhà lãnh đạo tái khẳng định tầm quan trọng của việc tiếp tục hợp tác để khắc phục các hậu quả chiến tranh. Trên tinh thần đó, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đánh giá cao đóng góp của Hoa Kỳ đối với việc tẩy độc thành công sân bay Đà Nẵng, và hoan nghênh việc Hoa Kỳ cam kết tiếp tục đóng góp để tẩy độc sân bay Biên Hòa. Chủ tịch nước hoan nghênh Hoa Kỳ cung cấp thêm sự hỗ trợ cho người khuyết tật. Tổng thống Donald Trump đánh giá cao Việt Nam tiếp tục hợp tác đầy đủ với Hoa Kỳ trong tìm kiếm quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh, và cam kết sẽ hợp tác với Việt Nam trong nỗ lực tìm kiếm tin tức của bộ đội Việt Nam bị mất tích trong chiến tranh.
Hai nhà lãnh đạo khẳng định ủng hộ việc tăng cường quan hệ giữa nhân dân hai nước, qua đó làm sâu sắc thêm sự hiểu biết lẫn nhau, hợp tác và tình hữu nghị giữa hai dân tộc, cụ thể thông qua trao đổi chuyên môn và học thuật, việc đưa trường Đại học Fulbright Việt Nam vào hoạt động, các khoản trợ cấp với tổng trị giá 500.000 USD dành cho cựu sinh viên của Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF), và việc những tình nguyện viên đầu tiên thuộc Chương trình Hòa bình có mặt tại Việt Nam.
Tổng thống Donald Trump và Chủ tịch nước Trần Đại Quang hoan nghênh hai bên trao đổi biên bản thảo luận về ý định dành cho Hoa Kỳ lô đất “D30” tại Hà Nội thuê để xây mới Đại sứ quán Hoa Kỳ, phù hợp với luật pháp mỗi nước. Tổng thống Donald Trump tái khẳng định Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ để Việt Nam có được các cơ sở vật chất ngoại giao và lãnh sự tốt hơn tại Hoa Kỳ.
Lãnh đạo hai nước ghi nhận tầm quan trọng của việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người.
Lãnh đạo hai nước thảo luận và hoan nghênh các sáng kiến nhằm duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy hợp tác và phát triển tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Hai bên ghi nhận vai trò trung tâm của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tại khu vực, và cam kết tôn trọng và hỗ trợ sự đoàn kết và vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình. Hai nhà lãnh đạo bày tỏ sự ủng hộ ASEAN đóng một vai trò lớn hơn trong ứng phó với các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống ở khu vực, bao gồm khủng bố, các tình huống khủng hoảng thiên nhiên và nhân đạo, nạn buôn ma túy và các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia. Hai bên cam kết làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác Chiến lược Hoa Kỳ – ASEAN trên cơ sở các nguyên tắc nêu trong Tuyên bố Sunnylands 2016. Hai nhà lãnh đạo hoan nghênh kỷ niệm 50 năm thành lập ASEAN và 40 năm thiết lập quan hệ Hoa Kỳ – ASEAN, và trông đợi những hoạt động kỷ niệm sắp tới, bao gồm Hội nghị cấp cao Kỷ niệm quan hệ Hoa Kỳ – ASEAN tại Manila, ngày 13 tháng 11 năm 2017.
Hai nhà lãnh đạo bày tỏ quan ngại sâu sắc về các chương trình và vụ thử hạt nhân và tên lửa đạn đạo của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, vi phạm các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế. Hai bên hối thúc tất cả các nước thực hiện đầy đủ và nghiêm túc tất cả những nghị quyết liên quan của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, và nhất trí làm sâu sắc hơn hợp tác song phương để đảm bảo thực thi hiệu quả những nghị quyết này. Hai nhà lãnh đạo nhất trí về tầm quan trọng của việc phi hạt nhân hóa Bán đảo Triều Tiên một cách hòa bình.
Lãnh đạo hai nước nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của quyền được tiếp cận tự do và mở khu vực Biển Đông đối với cộng đồng quốc tế, tầm quan trọng của việc duy trì thương mại hợp pháp không bị cản trở, và sự cần thiết phải tôn trọng tự do hàng hải – hàng không và các hình thức sử dụng biển hợp pháp khác. Hai bên tái khẳng định lập trường về Biển Đông được nêu trong các Tuyên bố chung Việt Nam – Hoa Kỳ và Hoa Kỳ – ASEAN trước đây, bao gồm việc kêu gọi các bên không có những hành động làm leo thang căng thẳng, quân sự hóa các cấu trúc đang tranh chấp, và hạn chế một cách phi pháp các quyền tự do trên biển; tái khẳng định cam kết chung đối với việc giải quyết hòa bình các tranh chấp, bao gồm việc tôn trọng đầy đủ các tiến trình ngoại giao và pháp lý. Lãnh đạo hai nước kêu gọi thực thi đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), và sớm hoàn tất một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu quả, có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Hai bên cũng kêu gọi tất cả các bên yêu sách ở Biển Đông làm rõ và thực thi những yêu sách hàng hải của mình phù hợp với luật pháp quốc tế, như được phản ánh trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, và thực hiện một cách thiện chí những trách nhiệm pháp lý quốc tế của mình trong quá trình quản lý và giải quyết tranh chấp.
Hai nhà lãnh đạo ghi nhận: Với tư cách một đối tác của Ủy hội Mê Kông (MRC) và một thành viên sáng lập của Sáng kiến Hạ nguồn sông Mê Kông (LMI), Hoa Kỳ ủng hộ những nỗ lực của các nước hạ nguồn sông Mê Kông nhằm quản lý một cách bền vững các nguồn nước và tài nguyên môi trường ở khu vực, phục vụ lợi ích của tất cả các nước. Chủ tịch nước Trần Đại Quang ghi nhận vai trò đi đầu của Hoa Kỳ trong giảm thiểu phát thải khí cac-bon trên toàn cầu và sáng tạo công nghệ năng lượng sạch; cảm ơn Hoa Kỳ đã hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy các biện pháp giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu./.
III- TUYÊN BỐ CHUNG VIỆT NAM – CHILE
Nhận lời mời của Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Tổng thống nước Cộng hòa Chile Michelle Bachelet Jeria thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 8 đến ngày 09-11-2017. Tuyên bố chung Việt Nam-Chile:
1. Nhận lời mời của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đại Quang, Tổng thống nước Cộng hòa Chile Michelle Bachelet Jeria đã tiến hành chuyến thăm cấp Nhà nước tới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 đến ngày 09-11-2017.
2. Trong chuyến thăm, Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Tổng thống Michelle Bachelet cùng Đoàn đại biểu hai nước đã có cuộc hội đàm xây dựng, sâu rộng về quan hệ song phương và trao đổi về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Tổng thống Michelle Bachelet cũng có các cuộc hội kiến với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
3. Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Tổng thống Michelle Bachelet khẳng định tầm quan trọng của mối quan hệ Đối tác toàn diện đã được Lãnh đạo cấp cao hai nước thiết lập vào tháng 5-2007; nhất trí đánh giá quan hệ hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và Chile đang ở mức độ phát triển tốt đẹp; tái khẳng định ý chí của hai bên trong việc củng cố và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ song phương vì lợi ích của nhân dân hai nước. Theo đó, hai Nhà Lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường trao đổi các chuyến thăm Cấp cao hai nước cũng như các hoạt động kỷ niệm 45 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao trong năm 2016.
4. Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh sự cần thiết tiếp tục làm sâu sắc đối thoại chính trị giữa Việt Nam và Chile, đặc biệt thông qua cơ chế Tham khảo Chính trị cấp Thứ trưởng Ngoại giao, trong đó Phiên họp gần đây nhất được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 10 năm 2016.
5. Hai nhà Lãnh đạo cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trao đổi các đoàn Quốc hội giữa Việt Nam và Chile cũng như các cuộc gặp song phương bên lề Hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới và Diễn đàn Nghị viện châu Á-Thái Bình Dương nhằm góp phần củng cố mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Quốc hội và nhân dân hai nước. Nhân dịp này, Tổng thống Chile chúc mừng Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch Diễn đàn Nghị viện châu Á-Thái Bình Dương và chúc Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao của Diễn đàn vào năm 2018.
6. Lãnh đạo hai nước nhất trí tầm quan trọng của việc phát triển hợp tác song phương trên cơ sở các tiềm năng và tính bổ trợ lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam và Chile, nhất là về giáo dục và đào tạo đại học, thương mại và đầu tư, nông nghiệp công nghệ cao, du lịch, ứng phó với thiên tai, cũng như các lĩnh vực hai bên có thế mạnh và cùng quan tâm.
7. Hai nhà Lãnh đạo đánh giá Thỏa thuận về hợp tác đạt được trong lĩnh vực y tế và hỗ trợ trẻ em và thanh thiếu niên bị ảnh hưởng bởi “chất độc da cam” là sự khởi đầu quan trọng nhằm phát triển nghiên cứu để giảm thiểu ảnh hưởng của chất độc hóa học này, vốn di truyền qua các thế hệ cũng như cảnh báo thảm họa do chất độc này gây ra cho nhân loại.
8. Về quan hệ kinh tế-thương mại, hai nhà Lãnh đạo đánh giá cao các kết quả đạt được kể từ khi Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-Chile được ký tháng 11-2011 và có hiệu lực ngày 01-01-2014; tin tưởng rằng văn kiện này là một trong những khuôn khổ pháp lý quan trọng thúc đẩy thương mại-đầu tư và tăng cường trao đổi hợp tác giữa hai nước.
9. Hai nhà Lãnh đạo bày tỏ tin tưởng sự gia tăng trao đổi du lịch sẽ góp phần thúc đẩy hiểu biết và kết nối giữa hai nước, trong đó Hiệp định miễn thị thực cho người mang hộ chiếu phổ thông, có hiệu lực từ tháng 8 vừa qua, góp phần tích cực vào tăng cường quảng bá tiềm năng du lịch của mỗi nước.
10. Hai Bên nhất trí tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong các lĩnh vực cùng quan tâm tại các tổ chức quốc tế và các diễn đàn đa phương mà Việt Nam và Chile là thành viên, như Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và Diễn đàn Hợp tác Đông Á-Mỹ Latinh (FEALAC) trên cơ sở tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ các quốc gia.
11. Lãnh đạo hai nước chia sẻ tầm nhìn chung trước các thách thức toàn cầu hiện nay, như xóa đói giảm nghèo, biến đổi khí hậu, môi trường, năng lượng tái tạo, bảo vệ các đại dương, nguồn nước và an ninh lương thực; khẳng định cam kết thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững, bao gồm các Mục tiêu Phát triển Bền vững, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hai nước đều là thành viên của Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018.
12. Về các vấn đề khu vực, Tổng thống Michelle Bachelet cảm ơn Chủ tịch nước Trần Đại Quang về sự ủng hộ của Việt Nam trong việc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đạt đồng thuận để Chile tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) của ASEAN, đã được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao tổ chức tại Vietiane, Lào vào tháng 9-2016.
Tổng thống Chile cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc Việt Nam trở thành nước Quan sát viên của Liên minh Thái Bình Dương; đồng thời, bày tỏ ủng hộ nỗ lực của các thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam, nhằm phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình, xây dựng một Cộng đồng dựa trên luật lệ, hướng tới người dân và lấy người dân làm trung tâm.
13. Trao đổi quan điểm về tình hình kinh tế thế giới, hai nhà Lãnh đạo nhất trí về sự cần thiết cùng hợp tác nhằm thúc đẩy một hệ thống thương mại thế giới rộng mở, dựa trên luật lệ, công bằng và bao trùm. Việc hai bên, cùng các thành viên khác của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) thảo luận, tìm giải pháp thúc đẩy tiến trình TPP trong tình hình mới, hướng tới việc sớm hiện thực hóa TPP sẽ góp phần đẩy mạnh hơn nữa quan hệ kinh tế-thương mại song phương, mở rộng không gian hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên và đóng góp cho tăng trưởng, liên kết kinh tế khu vực.
14. Nhấn mạnh về Năm APEC 2017 tại Việt Nam, Tổng thống Chile chúc mừng Chủ tịch nước Trần Đại Quang về sự chuẩn bị chu đáo cho các cuộc họp, tiếp xúc cả về mặt nội dung cũng như về lễ tân, hậu cần, đặc biệt là việc tổ chức Tuần lễ Cấp cao của các nhà Lãnh đạo trong các ngày 10 và 11 tháng 11 tại Đà Nẵng; bày tỏ tin tưởng Hội nghị Cấp cao này sẽ đem lại những kết quả tích cực.
15. Thay mặt Đoàn Chile và nhân danh cá nhân, Tổng thống Michelle Bachelet cảm ơn Chủ tịch nước Trần Đại Quang về sự đón tiếp nồng nhiệt và hiếu khách của Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã dành cho Đoàn.
16. Tổng thống Cộng hòa Chile Michelle Bachelet trân trọng mời Chủ tịch nước Trần Đại Quang tiến hành chuyến thăm cấp Nhà nước tới Chile; thời điểm chuyến thăm sẽ được thống nhất qua kênh ngoại giao.
Tuyên bố chung được ký tại Thành phố Hà Nội, ngày 09-11-2017, với hai bản gốc bằng tiếng Việt và tiếng Tây Ban Nha, cả hai bản có giá trị như nhau./.
Nguồn tin: TTXVN, Tạp chí Cộng sản
Nguồn: http://www.tuyengiaokontum.org.vn-HT