Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong ước xây dựng một xã hội mới, một cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Người đã thấy được mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với xây dựng nền văn hóa nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Vì vậy, trong Di chúc, Người đã dặn lại rằng, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(1).

quan-8-8

Chủ tịch Hồ Chí Minh thǎm Nhà máy diêm Thống Nhất trong những ngày đầu khôi phục kinh tế 1956 – Nguồn: bqllang.gov.vn

Quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa

Khi miền Bắc được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế rất lạc hậu gồm nhiều thành phần phức tạp, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thấp kém. Do vậy, để phát triển kinh tế, Người yêu cầu: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật… tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”(2). Người thấy rõ, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh vai trò của công nghiệp hóa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bài Con đường phía trước (ngày 20-01-1960), Người viết: “Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu,…công nghiệp chỉ mới chiếm không đầy hai phần, còn nông nghiệp và thủ công nghiệp chiếm đến già tám phần… Như vậy thì làm sao cho đời sống nhân dân thật dồi dào được?”(3). Và Người đã trả lời rằng: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu… Đó là con đường phải đi của chúng ta: Con đường công nghiệp hóa nước nhà”(4).

Không chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn rất quan tâm đến xây dựng văn hóa. Từ năm 1943, Người đã nêu lên định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(5). Như vậy, Người coi văn hóa là sự tổng hợp các giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra. Định nghĩa này đến nay vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự khi văn hóa đã thực sự trở thành sức mạnh to lớn trong công cuộc phát triển chính trị, kinh tế, xã hội. Người còn khẳng định: “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc. 1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. 2- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4- Xây dựng chính trị: dân quyền. 5- Xây dựng kinh tế”(6). Quan điểm này thể hiện tầm nhìn chiến lược thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xác định những tiêu chí cơ bản nhằm định hướng cho nền văn hóa Việt Nam trong tương lai. Văn hóa chính là nhân hóa hoạt động của con người, đánh dấu sự vượt lên của con người đối với trạng thái tự nhiên. Theo cách hiểu này, tất cả hoạt động của con người đều là hoạt động văn hóa, kể cả hoạt động kinh tế, chính trị. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách toàn diện bản chất của văn hóa, coi văn hóa là một loại hoạt động thông qua việc tạo dựng tâm hồn mà tác động tới toàn bộ thế giới loài người.

Trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh kinh tế là yếu tố quyết định tính chất và diện mạo của văn hóa, kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện vật chất và nguồn sống cho phát triển văn hóa. Người chỉ rõ: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới đủ điều kiện phát triển được”(7). Kinh tế có vai trò quyết định, do đó văn hóa không bao giờ tách rời kinh tế, luôn bị chi phối bởi yếu tố kinh tế. Từ cách nhìn nhận biện chứng về kinh tế và văn hóa, Người khẳng định, “trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề phải chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”(8). Vì thế, văn hóa không thể đứng ngoài, “mà phải ở trong kinh tế và chính trị”, và ngược lại, kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng những môi trường văn hóa – xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt được. Song, kinh tế chính là cơ sở, điều kiện cho sự hình thành và phát triển văn hóa, Người cho rằng: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa…? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế, kinh tế phải đi trước. Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(9).

Theo Người, văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, gắn bó hữu cơ với cơ sở hạ tầng; vì thế, từ trong bản chất và tuân thủ quy luật chung, văn hóa ở trong kinh tế và chính trị, văn hóa không thể đứng ngoài, mà có nhiệm vụ góp phần thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân, trở thành một động lực to lớn, chủ động tác động tích cực trở lại đối với kinh tế và chính trị. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(10). Sự tác động trở lại của văn hóa đối với phát triển kinh tế thể hiện ở hai mặt. Một nền văn hóa lạc hậu sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế và xã hội. Vì vậy, ngay từ khi mới thành lập nước, Người đã cho xuất bản tác phẩm “Đời sống mới” hướng dẫn cụ thể việc ăn, ở, việc thiện, việc nghĩa, ma chay, cưới hỏi, may mặc theo lối sống mới, cải tạo các hủ tục trong xã hội; nhấn mạnh nhiệm vụ thực hiện đường lối chính trị theo đặc thù của mỗi lĩnh vực, tác động vào đời sống kinh tế, vì lợi ích của nhân dân: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Tác phẩm “Đời sống mới” một lần nữa làm rõ quan điểm “văn hóa phải thấm sâu vào tâm lý quốc dân”, văn hóa phải đi sâu vào tâm lý nhân dân, gắn bó với thực tiễn cuộc sống của nhân dân. Đồng thời, Người cũng khẳng định nhiều lần về ý nghĩa, vai trò của văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội, “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ rằng, tăng cường xây dựng văn hóa chính là để thực hiện nhiệm vụ cơ bản là phát triển kinh tế. Việc xây dựng kinh tế phát triển đất nước trông chờ rất lớn vào việc xây dựng văn hóa nhằm tạo ra động lực tinh thần lớn mạnh. Với quan niệm xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải là một xã hội có văn hóa cao, Người nhấn mạnh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”(11). Đây chính là phương châm trồng người xuất phát từ bản chất nhân văn của văn hóa. Ý thức về tư tưởng tiên tiến, nhân cách và lối sống của con người là nội dung quan trọng của các quan hệ văn hóa, là động lực để phát triển kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ… cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(12).

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt, phát triển kinh tế là nền tảng để xây dựng văn hóa; nhưng mặt khác, văn hóa có tính độc lập tương đối của nó. Văn hóa không phụ thuộc một cách máy móc vào điều kiện sinh hoạt vật chất, vào mức sống, mà có khi cách mạng tư tưởng – văn hóa phải đi trước một bước để dọn đường cho cách mạng công nghiệp, theo tinh thần “văn hóa soi đường cho quốc dân đi, văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Trả lời câu hỏi của phóng viên báo Nhân đạo (L’Humanité) về nhân tố nào sẽ biến nước Việt Nam lạc hậu thành một nước tiên tiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kìm hãm nhân dân chúng tôi trong vòng ngu muội để chúng dễ áp bức. Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ… Chính vì vậy, chúng tôi đã đào tạo nhanh chóng các cán bộ cho tất cả các ngành hoạt động; … để công nghiệp hóa đất nước”(13).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định, văn hóa không chỉ là động lực để phát triển kinh tế, xã hội mà còn là động lực để phát triển đối với một quốc gia, dân tộc. Người chỉ rõ sức mạnh nội sinh của văn hóa: “Phải làm thế nào để văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm sao cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng. Văn hóa phải làm cho mỗi người dân từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu được nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc mình nên hưởng…Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”(14).

Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế phải hài hòa với xây dựng văn hóa, phải gắn sự phát triển kinh tế với góp phần nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân. Mặt khác, phải làm mọi cách để phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa, làm cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, biến văn hóa thành một nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển kinh tế.

Sự vận dụng của Đảng ta về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa trong công cuộc đổi mới hiện nay

Sau hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã thu được nhiều thành tựu khả quan, tạo tiền đề để từng bước nâng cao đời sống vật chất và đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Mặc dù vậy, nền kinh thế thị trường ấy vẫn chưa hoàn thiện, chưa được quản lý có hệ thống, vai trò điều tiết của Nhà nước chưa được tổ chức chặt chẽ, lợi ích kinh tế cá nhân chưa được đặt trong tương quan mật thiết với lợi ích kinh tế cộng đồng. Đây cũng là lúc mặt trái của kinh tế thị trường nhanh chóng bộc lộ, dẫn tới những hậu quả đáng tiếc, thậm chí có lúc gây ra tổn thất nghiêm trọng đối với sự ổn định và phát triển của văn hóa xã hội. Một xã hội nếu chỉ chạy theo nhu cầu vật chất, coi thường đạo đức, nạn tham ô, hối lộ hoành hành tất sẽ làm băng hoại đạo đức và các giá trị văn hóa, tinh thần của xã hội. Trong điều kiện ấy, chắc chắn phát triển kinh tế sẽ có nhiều vấn đề đặt ra cần khắc phục.

Vì vậy, Đảng ta xác định, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải tiến hành song song với việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng con người. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã xác lập một hệ thống chính sách để xây dựng và phát triển văn hóa, trong đó đáng chú ý là chính sách “kinh tế trong văn hóa” nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa và chính sách “văn hóa trong kinh tế” nhằm bảo đảm cho văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế: “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội”(15). Đến Hội nghị Trung ương 10 khóa IX, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là “bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định để bảo đảm cho sự phát triển toàn diện bền vững của đất nước”(16). Đại hội lần thứ X, Đảng ta đã nêu rõ: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt với các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”(17).

Trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn vẹn, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(18). Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa xã hội hài hòa với phát triển kinh tế”(19). Trong phương hướng xây dựng văn hóa được thông qua tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”(20) và “xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế”. Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.

Như vậy, trên cơ sở các quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng, có thể khái quát mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa.

Một là, văn hóa là động lực của phát triển. Văn hóa với tư cách là sức mạnh mềm – sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của một dân tộc, đóng vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của dân tộc nói chung và của nền kinh tế nói riêng.

Hai là, văn hóa là mục tiêu của phát triển kinh tế – xã hội. Đối với Việt Nam, mục tiêu tối cao của phát triển kinh tế – xã hội là nhằm phục vụ cho công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, chính là giải phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất cho loài người.

Ba là, phát triển kinh tế đồng thời giúp cho con người có nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa. Phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa chính là nét “đặc sắc” của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đó là: xã hội dân chủ, công bằng, văn minh – những kết quả, giá trị to lớn nhất của văn hóa. Cách mạng để giải phóng con người, để con người có thể tồn tại trong một xã hội ngày càng dân chủ, công bằng, văn minh hơn. Đối với nước ta, các giá trị kinh tế trước hết và tối cao nhất là để phục vụ cho con người đạt được các giá trị văn hóa, nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Hơn 30 năm đổi mới đất nước, kinh tế nước ta phát triển với tốc độ nhanh, đời sống của trên 90 triệu dân đã được cải thiện một cách căn bản. Tuy nhiên, so với các quốc gia phát triển, mức sống của người dân hiện nay vẫn còn thấp và chưa đồng đều. Vì thế, để nâng cao hơn nữa mức sống của nhân dân đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tích cực phấn đấu nhiều hơn trong một thời gian dài. Đến nay, chúng ta đã bước đầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng để nâng cao hơn nữa năng lực của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế thì Việt Nam cần phải hoàn thiện từng bước và hoàn thiện một cách hợp lý. Hơn nữa, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời đại kinh tế tri thức đòi hỏi phải có một động lực tinh thần mạnh mẽ. Động lực ấy, trước hết phải tìm thấy ở văn hóa. Ngày nay, chúng ta càng thấy rõ hơn vai trò quan trọng của văn hóa đối với công cuộc phát triển kinh tế đất nước.

Do đó, trong giai đoạn cách mạng mới, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và xây dựng văn hóa, cần quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt hơn định hướng kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới phát triển văn hóa và con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; mỗi chính sách văn hóa, xây dựng con người, mỗi việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội đều phải góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Bất cứ một sự sai sót hay thiên lệch về phía kinh tế hay văn hóa, con người, tiến bộ và công bằng xã hội trong hoạch định và thực thi các chính sách của Đảng, Nhà nước đều sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội nói chung, cũng như đối với từng lĩnh vực cụ thể. Bởi vì các mục tiêu này có mối quan hệ biện chứng, có sự tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình phát triển.

Như vậy, những tư tưởng lớn, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng, hài hòa giữa phát triển kinh tế và xây dựng văn hóa vừa là những tư tưởng mang tính chỉ đạo lâu dài, đồng thời đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân vận dụng đúng đắn và sáng tạo vào giải quyết những vấn đề của thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay./.

————————–

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr. 612

(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 412
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 444
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 445
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr. 458
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr. 458
(7) Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1997, tr. 320
(8) Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1981, tr. 34
(9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 470
(10) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr. 246
(11) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr. 66
(12) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 10, tr. 458 – 459
(13) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 13, tr. 190 – 191
(14) Báo Cứu quốc, ngày 08-10-1945
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 55
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 88
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 131
(18) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 75
(19) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 124
(20) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 127, 128

Đặng Công Thành

Nguồn: http://tuyengiaokontum.org.vn-HT