Giáo sư Lê Thi, người phụ nữ cùng với bà Đàm Thị Loan vinh dự được chọn kéo cờ trong Lễ Tuyên ngôn độc lập cách đây tròn 72 năm giờ đã bước sang tuổi 92.

Dù mắt yếu, chân run đến mức “không thể đi ra Lăng Bác để chụp ảnh mừng Quốc khánh 2/9 nữa”, nhưng trí nhớ của bà vẫn còn rất tốt.

Bà gần như còn nhớ đến từng chi tiết nhỏ của ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập: Tiếng hát của bài Quốc ca vang lên và lá cờ Tổ quốc cũng từ từ được kéo lên trong tiếng Quốc ca của hàng vạn người có mặt tại Quảng trường. Khi bài Quốc ca vừa kết thúc cũng là lúc lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trên lễ đài, trong tiếng vỗ tay vang rền của hàng vạn người dân có mặt tại Quảng trường Ba Đình”.

ba_thi

Lấy họ Lê làm bí danh vì thích… vua Lê Lợi

Ngồi bên chiếc bàn kê giữa căn phòng khách rộng khoảng 20 m2 trong căn nhà trên phố Ngô Quyền (Hà Nội), bà Thi tay run run, lật giở từng tấm ảnh đã ố vàng được lưu giữ cẩn thận trong cuốn sổ dày cộp.

Bà Thi chỉ vào bức ảnh có hai người phụ nữ khoảng 70 tuổi, một người mặc áo dài trắng cùng một người phụ nữ mặc áo ka ki đội mũ vải vui vẻ bên nhau trước Quảng trường Ba Đình lịch sử, rồi bảo: “Đây là bức ảnh tôi và chị Đàm Thị Loan chụp chung năm 1997 – sau 52 năm hai chị em tôi được giao nhiệm vụ kéo cờ tổ quốc tại Lễ Tuyên ngôn độc lập sáng 2/9/1945”.

Bà Thi vừa rót nước mời khách vừa vén vội mấy sợi tóc bạc xòa dưới vầng trán đầy nếp nhăn. Bỗng nhiên bà ngồi thừ ra, ký ức của 70 năm trước lại ùa về trong tâm trí.

Bà kể, quê bà ở Hưng Yên, nhưng bà sinh ra và lớn lên tại Hà Nội trong một gia đình trí thức có 8 anh chị em, ở 98 Hàng Bông. Cha bà Thi là một nhà giáo nổi tiếng: Hiệu trưởng Trường Bưởi, liệt sĩ Dương Quảng Hàm.

“Nhưng tại sao bà lại mang họ Lê?” – tôi hỏi khi bà kể đến tên cha mình. Bà Thi cười: “Lê Thi là bí danh của tôi. Số là khi học năm cuối Trường Đồng Khánh, tôi rất thích họ Lê của vua Lê Lợi nên tôi đã tự lấy họ Lê để đặt cho mình, còn Thi là tên của người bạn thân. Tên thật của tôi trong giấy tờ là Dương Thị Thoa”.

Bà Thi kể tiếp, đầu tháng 8/1945, bà chính thức tham gia cách mạng và được giao nhiệm vụ làm cán bộ Hội phụ nữ Hoàn Kiếm. Nhiệm vụ của bà là đi vận động phụ nữ góp tiền, của để gửi cho cách mạng.

Ngày 17/8/1945 bà đã vận động hàng trăm phụ nữ tham gia lễ mít tinh ủng hộ Việt Minh và yêu cầu Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim làm lễ hạ cờ để treo cờ Việt Minh. Và đến ngày 19/8/1945 bà lại cùng hàng vạn người dân Thủ đô tham gia giành chính quyền tại Hà Nội.

“Khi cách ngày 2/9/1945 khoảng hơn 1 tuần, tôi nhận được lệnh của cấp trên đi vận động tất cả phụ nữ Hàng Bông tập hát Quốc ca, đi đều bước, chọn quần áo, trang phục mặc chỉnh tề, nghiêm trang để chờ đến ngày trọng đại, trong khoảng thời gian đó chúng tôi vừa vui mừng, vừa hồi hộp”.

Mặc dù, chiều mới đến giờ tập trung, nhưng từ 9h sáng ngày 2/9/1945, bà Thi đã cùng chị em phụ nữ tập trung đông đủ tại Hàng Bông, khoảng gần 100 người. Sau đó, họ đi bộ qua Cửa Nam xuống đường Điện Biên Phủ để tiến vào Quảng trường Ba Đình.

“Lúc đó, Quảng trường Ba Đình là một bãi cỏ rất rộng, khoảng hơn chục nghìn m2, ở chính giữa đã có một lễ đài cao khoảng 4 m, rộng hơn 5 m được làm bằng gỗ, phủ vải bên ngoài và được trang trí rèm lượn sóng rất đẹp. Chính giữa lễ đài có một chiếc cột cờ cao khoảng 10 m” – bà Thi nhớ lại.

“Phụ nữ chúng tôi hôm đó, ăn vận áo dài trắng, quần trắng, riêng tôi cầm trên tay một cây gậy bằng gỗ, trên đường đi vào quảng trường vừa đi vừa hô 1,2…1,2… đi đều bước”.

Khóc khi thấy cờ Tổ quốc tung bay 

Đến khoảng 13h30, ngày 2/9/1945 thì Quảng trường Ba Đình không còn một chỗ trống, hàng vạn người dân của Thủ đô và vùng lân cận đều đổ về đây, ai cũng háo hức chờ đến giờ Bác Hồ xuất hiện.

Trong lúc, mọi người đang chờ đợi giây phút quan trọng thì thấy một đồng chí trong ban tổ chức đi về phía Hội phụ nữ Hoàn Kiếm và nói: “Tôi yêu cầu đồng chí Thi lên tham gia kéo cờ trên lễ đài”.

“Dù đã chuẩn bị trước nhưng lúc đó, tôi vẫn hoang mang, lo lắng vì sợ mình không làm nổi, nhỡ có điều gì thì không biết xử lý như thế nào trong một ngày trọng đại như vậy.

Khi lên tới lễ đài, tôi đã thấy một chị mặc trang phục dân tộc Tày, hai tay đang nâng lá cờ tổ quốc màu đỏ có hình sao vàng năm cánh đứng nghiêm trang cạnh chiếc cột cờ cao khoảng hơn 10 m. Thấy vậy, tôi vội vàng nói với chị phụ nữ đang nâng cờ: “Chị để em kéo cờ nhé”.

Tôi vừa dứt lời, thì tiếng hát của bài Quốc ca vang lên và lá cờ Tổ quốc cũng từ từ được kéo lên trong tiếng Quốc ca của hàng vạn người có mặt tại Quảng trường. Khi bài Quốc ca vừa kết thúc cũng là lúc lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới trên lễ đài, trong tiếng vỗ tay vang rền của hàng vạn người dân có mặt tại Quảng trường Ba Đình”.

Bà Thi kể “khi thấy lá cờ Tổ quốc đã được kéo lên trên đỉnh cột cờ, bay phất phới trong gió, lúc đó nước mắt tôi bỗng ứa ra vì xúc động, xen lẫn niềm tự hào. Trên lễ đài, tôi được nhìn thấy Bác Hồ rõ hơn trong bộ kaki giản dị, đi dép cao su, khác hẳn với những vị lãnh tụ mà tôi đã được học trong sách vở.

Và sau này, mỗi khi đến ngày 2/9 hàng năm, tôi lại nhớ như in câu nói của Bác Hồ lúc 14h ngày 2/9/1945 khi đọc Tuyên ngôn độc lập: “Tôi nói đồng bào có nghe rõ không?”. Và bên tai tôi vang lên tiếng của hàng vạn người dân đồng thanh đáp lại: “Có ạ” – giọng bà Thi nghẹn lại.

Thú vị là đến 20 năm sau, bà Thi mới biết tên người tham gia kéo cờ cùng mình hôm đó là bà Đàm Thị Loan, người dân tộc Tày, vợ của Đại tướng Hoàng Văn Thái.

“Mãi đến ngày 2/9/1997, tôi mới được gặp lại chị Loan tại Quảng trường Ba Đình, rồi lại bẵng đi một thời gian hai chị em cũng không gặp nhau. Và đến năm 2010 thì chị Loan mất”, bà Thi vừa nói vừa lau giọt nước mắt lăn dài trên má rồi chỉ vào tấm ảnh, bà cùng bà Loan gặp nhau năm 1997 và cùng chụp ảnh kỷ niệm tại Quảng trường Ba Đình.

Cán bộ chỉ biết chỉ tay 5 ngón – khó thành công 

Niềm vui độc lập chưa trọn, đất nước lại lâm nguy. Theo nghiệp bố, bà Thi một lòng theo cách mạng. Năm 1947, bà Thi được cấp trên giao nhiệm vụ làm Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh Vĩnh Yên (Hưng Yên bây giờ). Đến năm 1949 bà được giao làm Chủ tịch hội Phụ nữ tỉnh Tuyên Quang.

Sau đó, bà Thi được cấp trên điều về công tác bí mật tại Hà Nội rồi tham gia nghiên cứu, giảng dạy và giữ chức Viện trưởng Viện Triết học Việt Nam, rồi Viện trưởng Viện Gia đình và giới, đến năm 2000 bà về nghỉ hưu ở tuổi 73.

Bà bảo, những năm tháng hoạt động cách mạng, đáng nhớ nhất là thời gian làm Phó chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh Vĩnh Yên. Bởi đang là nữ sinh trường Đồng Khánh danh giá ở Hà Nội, gia đình thuộc tầng lớp trí thức, quen mặc áo dài trắng, quần dài trắng, đi dép, nay được cấp trên giao nhiệm vụ về tỉnh lẻ để tuyên truyền vận động người dân một lòng theo cách mạng đánh đổ thực dân Pháp, bà Thi phải thay đổi hoàn toàn.

 “Muốn dân tin lời mình nói, nghe mình vẫn động đi theo cách mạng thì không còn cách nào kháclà phải cùng làm, cùng ăn, cùng ở với dân. Tôi phải tự tìm cách học quấn khăn mỏ quạ, đi chân trần, mặc quần nâu, áo vải, lội ruộng, cấy lúa, cuốc đất cùng dân.

Tuy nhiên khó nhất là tôi phải học cách cấy lúa, phải học rất nhiều lần, kệ ngứa ghẻ, tôi lăn xả vào bùn đất đồng ruộng, mãi cũng quen. Mới đầu thấy tôi ở Hà Nội về nhiều người không thích nhưng thấy tôi không quản ngại, làm cùng dân nên ai cũng quý”.

Bà Thi bảo, bài học người cán bộ trước tiên phải gần dân, cùng cấy với dân, cùng cuốc đất, ăn, ngủ cùng dân thì người dân mới tin, mới theo Cách mạng –  không chỉ có giá trị trong thời chiến mà cả trong thời bình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, quản trị con người.

“Làm cán bộ mà chỉ biết đứng chỉ tay 5 ngón thì chẳng ai tin được và rất khó để thành công”, bà nói.

Theo Xuân Hải/Lao Động

Nguồn: http://news.zing.vn-HT