Những ngày cuối năm nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tổ chức kỷ niệm trọng thể 70 năm Ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946 – 19-12-2016), 72 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 – 22-12-2016) và 27 năm Ngày hội quốc phòng toàn dân (22-12-1989 – 22-12-2016). Đây cũng là dịp để chúng ta ôn lại và tự hào về những ngày tháng hào hùng mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, về Ngày hội quốc phòng toàn dân và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Trên cơ sở đó, tiếp tục phát huy tinh thần, khí phách, truyền thống của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

toàn quốc kháng chiến

Ảnh minh họa (Nguồn: tuyengiao.vn)

Sau thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt đồng bào cả nước, đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố với thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Sự kiện lịch sử trọng đại đó mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Lẽ ra, từ đó nhân dân ta được sống trong hòa bình, độc lập, tự do để xây dựng và phát triển đất nước, nhưng nguyện vọng đó chưa thể thành hiện thực, bởi thực dân Pháp rắp tâm xâm lược nước ta một lần nữa. Được đế quốc Anh và Mỹ tiếp sức, thực dân Pháp đã tráo trở, đơn phương xóa bỏ mọi cam kết, không thi hành Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946; tăng cường các hoạt động quân sự, phá hoại nền hòa bình của nhân dân ta. Đúng như nhận định của Thường vụ Trung ương Đảng tại Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất (ngày 19-10-1946): “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”(1). Tháng 11-1946, quân Pháp gây xung đột và khiêu khích ta ở Hải Phòng; đầu tháng 12-1946, chúng chiếm Đà Nẵng, Lạng Sơn; ngày 17-12-1946, chúng gây hấn ở Thủ đô Hà Nội… Đặc biệt, ngày 18-12-1946, chỉ huy quân Pháp đã gửi tối hậu thư đòi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát Thủ đô Hà Nội cho chúng trong vòng 48 giờ.

Với khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhân nhượng, kiềm chế hết mức và nỗ lực đàm phán với chính quyền Pháp nhưng không thành công. “Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”(2). Trước tình hình đó, để bảo vệ nền độc lập vừa giành được, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với hiệu triệu: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(3). Tiếp đó, ngày 22-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” chống thực dân Pháp xâm lược.

Điều đặc biệt là, trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, so sánh tiềm lực kinh tế, quân sự thì ta kém địch, nhưng lại vượt trội về sức mạnh chính trị – tinh thần, sức mạnh của đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, sáng tạo, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân được xây dựng, rèn luyện từng bước qua chiến đấu, ngày càng trưởng thành, vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân kháng chiến. Cũng vì thế, trong tiến trình của cuộc kháng chiến có sự chuyển hóa về so sánh lực lượng theo hướng có lợi cho ta – ta càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn và giành quyền chủ động chiến lược; còn địch ngày càng thất bại nặng nề, lâm vào thế bị động đối phó. Và đến giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, xét về tổng thể, ta mạnh hơn địch. Thắng lợi của ta và thất bại của địch được phân định bằng trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu” là tất yếu lịch sử. Thắng lợi này đã buộc thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, mở đầu bằng toàn quốc kháng chiến, là do nhiều nhân tố hợp thành, trong đó sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố cơ bản, quyết định. Trong những ngày toàn quốc kháng chiến, cũng như suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, giữ nước của cả dân tộc; ý chí quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(4); tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, sẵn sàng “hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”(5); khơi dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

                                                                                                             *
*    *

Trong những năm tới, tuy hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền quốc gia, biển, đảo, tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Các nước lớn có sự điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới. Đối với nước ta, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngày càng quyết liệt, tinh vi, xảo quyệt… Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta có sự phát triển, yêu cầu cao hơn, đan xen cả thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn.

Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong tình hình mới, chúng ta cần thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu sau:

Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ngày càng hiện đại.

Đoàn kết là truyền thống quý báu và nguồn sức mạnh vô cùng to lớn của dân tộc ta. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: Một dân tộc dù nhỏ, song nếu biết đoàn kết, phát huy sức mạnh của toàn dân thì có thể đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, dù chúng có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn. Nhận thức rõ vai trò to lớn của toàn dân đối với sự nghiệp cách mạng, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tư tưởng bao trùm trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Trung ương Đảng là: Đoàn kết toàn dân tộc, kiên quyết kháng chiến, cứu quốc, với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó cũng là tiền đề cho việc hình thành đường lối “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính” của Đảng ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Phát huy tinh thần đó, chúng ta cần hết sức coi trọng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của cả nước trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Các cấp, các ngành, các địa phương phải thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, phải thấu suốt “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo”(6). Trên cơ sở đó, cụ thể hóa trong thực tiễn đời sống xã hội bằng những hành động, việc làm thiết thực nhằm cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là của đồng bào các dân tộc thiểu số và tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới, hải đảo. Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần đề cao trách nhiệm, thực hiện tốt công tác dân vận, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chấp hành pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, khu vực phòng thủ ở địa phương vững chắc.

Nền quốc phòng toàn dân là do nhân dân thực hiện, lực lượng vũ trang làm nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Đó là nền quốc phòng độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ngày càng hiện đại; mang đậm tính chất hòa bình, tự vệ, không nhằm đe dọa bất cứ quốc gia nào, nhưng đủ sức ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, với mọi quy mô của các thế lực thù địch. Trong tình hình hiện nay, chúng ta phải tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy nội lực với tranh thủ ngoại lực để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, củng cố tiềm lực quân sự, quốc phòng vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hai là, tăng cường các tiềm lực, nhất là tiềm lực chính trị, tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc đã cho thấy tầm quan trọng của nhân tố chính trị, tinh thần. Đây cũng là ưu thế tuyệt đối của ta so với địch. Mặc dù chúng ta kém địch về so sánh lực lượng, trang bị vũ khí, nhưng nhờ có sự vượt trội về nhân tố chính trị, tinh thần, nên xét về tổng thể, ta mạnh hơn địch; ta càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn. Trong những ngày toàn quốc kháng chiến, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy, phát huy cao độ nhân tố chính trị, tinh thần, nhất là truyền thống yêu nước, ý chí quyết tâm kháng chiến, niềm tin chiến thắng của toàn dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì mục tiêu độc lập, tự do của dân tộc và ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Điều đó đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn của toàn dân tộc để đánh bại thực dân Pháp xâm lược, kết thúc bằng thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ.

Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta phải thường xuyên coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, làm cơ sở để xây dựng các tiềm lực kinh tế, văn hóa, quân sự, an ninh, khoa học – công nghệ… của nền quốc phòng toàn dân. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức về âm mưu, thủ đoạn và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tập trung xây dựng, nâng cao hiệu quả của hệ thống chính trị các cấp, trọng tâm là xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực toàn diện để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.

Đặc biệt, các cấp, các ngành phải quán triệt, triển khai và thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp trong Quân đội nhiệm kỳ 2015 – 2010, góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của toàn quân.

Ba là, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh cả về thế trận và lực lượng; gắn xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở từng khu vực và trên địa bàn cả nước.

Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quan trọng nhất, cốt lõi nhất là thế trận và lực lượng. Xây dựng thế trận và lực lượng quốc phòng vững mạnh vừa là mục tiêu, yêu cầu, vừa là nội dung chủ yếu của xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Trong quá trình tổ chức thực hiện, cần hết sức coi trọng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở từng khu vực và trên địa bàn cả nước, theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”(7), trong đó, cần đặc biệt coi trọng “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(8). Trước hết, cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị các cấp trong sạch, vững mạnh; củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ, khơi dậy, quy tụ và phát huy nhân tố chính trị, tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận của nhân dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân.

Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững chắc là một nội dung quan trọng trong xây dựng thế trận, nhằm tạo nên sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân. Vì thế, các địa phương cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22-9-2008, của Bộ Chính trị khóa X, về “Tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới” và Nghị định số 02/2016/NĐ-CP, ngày 5-1-2016, của Chính phủ, về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 152/2007/NĐ/CP, ngày 10-10-2007, của Chính phủ, về “Khu vực phòng thủ”. Tập trung xây dựng thế trận quân sự, triển khai xây dựng các công trình quốc phòng ngày càng hoàn chỉnh, vững chắc, có chiều sâu trong các khu vực phòng thủ then chốt, căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần, kỹ thuật và sở chỉ huy các cấp. Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) phải được xây dựng vững mạnh về quốc phòng, an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, đối ngoại,… Để xây dựng thế trận và lực lượng quốc phòng vững mạnh, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước và sự phối hợp, tham mưu tổ chức thực hiện của các lực lượng, ban, ngành, đoàn thể nhân dân từ Trung ương đến địa phương.

Thường xuyên quan tâm xây dựng lực lượng quốc phòng mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đủ sức giải quyết các tình huống về quốc phòng, an ninh và thực hiện các nhiệm vụ khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu nạn… Nâng cao khả năng hiệp đồng, phối hợp hoạt động giữa các lực lượng thực hiện đấu tranh quốc phòng trong thời bình và tác chiến khi đất nước có chiến tranh. Tiếp tục điều chỉnh, bố trí lực lượng và tăng cường tiềm lực quốc phòng trên các vùng, miền và toàn bộ lãnh thổ theo ý định chiến lược thống nhất, nhằm nâng cao khả năng phòng thủ của đất nước trong tình hình mới.

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Trong những ngày toàn quốc kháng chiến cũng như trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cùng với việc phát huy nhân tố chính trị, tinh thần của toàn dân tộc, Đảng ta luôn coi trọng việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân là nhân tố quyết định trực tiếp đến trình độ phát triển của chiến tranh nhân dân. Nhờ đó, quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, kết thúc vẻ vang sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, chúng ta cần tiếp tục kế thừa bài học quý báu đó, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, làm nòng cốt để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ Tổ quốc. Trước hết, cần tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, nhằm bảo đảm cho Quân đội có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu ngày càng cao. Chú trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo đảm cho Quân đội thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Cấp ủy, chỉ huy các cấp phải chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về tổ chức lực lượng quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Quá trình điều chỉnh tổ chức, biên chế lực lượng phải bảo đảm yêu cầu “tinh, gọn, mạnh, linh hoạt”, cơ cấu hợp lý giữa các thành phần quân chủng, binh chủng, giữa khối cơ quan và đơn vị, giữa khối chiến đấu và phục vụ chiến đấu; ưu tiên bảo đảm quân số cho các đơn vị tiến thẳng lên hiện đại, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trên tuyến biên giới, biển, đảo.

Để nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của bộ đội, các cơ quan, đơn vị toàn quân phải thường xuyên coi trọng và thực hiện tốt công tác huấn luyện, đào tạo. Trên cơ sở quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 765-NQ/QUTW, ngày 20-12-2012, của Quân ủy Trung ương, về “Nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013 – 2020 và những năm tiếp theo”, các đơn vị cần tích cực đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp huấn luyện chiến đấu theo hướng “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”; coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát với thực tế chiến đấu, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng tác chiến và địa bàn hoạt động, trong đó chú trọng nâng cao khả năng khai thác, sử dụng thuần thục các loại vũ khí, trang bị, phương tiện hiện có, nhất là các loại vũ khí, trang bị, phương tiện mới, hiện đại. Đồng thời, tăng cường tổ chức diễn tập tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng và diễn tập hiệp đồng với các lực lượng trong khu vực phòng thủ ở các quy mô khác nhau; huấn luyện và diễn tập các lực lượng đặc nhiệm, tác chiến biển, đảo, cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai… nhằm nâng cao năng lực tổ chức, chỉ huy, điều hành của đội ngũ cán bộ các cấp, tạo bước chuyển biến mới, vững chắc trong công tác huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu.

Thực hiện tốt công tác quản lý bộ đội, quản lý vũ khí, trang bị kỹ thuật; kết hợp chặt chẽ xây dựng chính quy với rèn luyện kỷ luật, tạo chuyển biến tích cực về chấp hành kỷ luật của Quân đội và pháp luật của Nhà nước. Phấn đấu giảm tỷ lệ vụ, việc kỷ luật thông thường, hạn chế đến mức thấp nhất các vụ, việc nghiêm trọng, nhất là mất an toàn trong huấn luyện, diễn tập, lao động sản xuất và khi tham gia giao thông.

Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hậu cần, kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trước hết, cần bảo đảm tốt hậu cần, kỹ thuật cho nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu, phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn và các nhiệm vụ đột xuất khác, nhất là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 16-7-2011, của Bộ Chính trị khóa XI, về “Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; trọng tâm là triển khai quy hoạch xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035; tập trung thực hiện các chương trình, dự án trọng điểm, nhằm bảo đảm vũ khí, trang bị cho Quân đội. Cùng với đó, quan tâm đúng mức, tạo sự chuyển biến tích cực, toàn diện, vững chắc các mặt công tác khác, như đối ngoại quốc phòng, nghiên cứu khoa học quân sự, kế hoạch – đầu tư, tài chính, pháp chế, tư pháp, thanh tra…, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm cho Quân đội hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Kỷ niệm 70 năm Ngày toàn quốc kháng chiến, 72 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 27 năm Ngày hội quốc phòng toàn dân là những sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước, của Quân đội nhân dân. Tuy những sự kiện này mỗi ngày lại lùi xa, song những bài học kinh nghiệm về phát huy tinh thần đoàn kết và ý chí, quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc trong những ngày toàn quốc kháng chiến, về xây dựng Quân đội và Ngày hội quốc phòng toàn dân vẫn còn nguyên giá trị. Phát huy tinh thần toàn quốc kháng chiến, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, nhất là quan điểm, phương châm, giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới, góp phần củng cố tiềm lực quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước./.

——————————————

(1) Văn kiện Đảng toàn tập, 1945 – 1947, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 133

(2), (3), (4), (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 534

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 158

(7), (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 148, 149

Nguồn: www.tapchicongsan.org.vn-HT